Một số suy nghĩ về Báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam
25 năm qua, báochí của Liên hiệp hội Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh về số lượng, từng bước nâng cao về chất lượng. Từ gần một chục tờ báo và tạp chí đầu tiên ra đời trước năm 1983 (Báo Khoa học & Đời sống, Báo Khoa học phổ thông, Tạp chí Đông y Việt Nam...), đến nay khối báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam có 6 tờ báo in, 78 tạp chí, 59 bản tin và ấn phẩm định kỳ và 29 trang tin điện tử. Thông qua báo chí, Liên hiệp hội Việt Nam đã tuyên truyền và giới thiệu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, giới thiệu thông tin và phổ biến kiến thức đến mọi tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí, đưa nhanh tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
Nhiều tờ báo, tạp chí đã thực sự trở thành diễn đàn trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm của các nhà khoa học và trở nên gần gũi với đông đảo bạn đọc trong cả nước. Một số tạp chí chuyên ngành (về y học và sức khoẻ, về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) đã trở thành tài liệu tham khảo có giá trị đối với các chuyên gia, nhà khoa học, sinh viên, học sinh và người dân. Trong vài năm gần đây, các bài báo đăng trên 35 tạp chí khoa học của Liên hiệp hội Việt Nam được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước tính điểm công trình khi xét công nhận các chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam phát triển nhanh đã phản ánh một phần tiềm năng và thế mạnh của Liên hiệp hội Việt Nam. Với đội ngũ trí thức có trình độ cao, thông thạo ngoại ngữ, trải nghiệm thực tiễn, có niềm đam mê khoa học (theo số liệu thống kê năm 2005, 92,1% cán bộ lãnh đạo, phóng viên và biên tập viên của các báo, tạp chí là cán bộ khoa học) tham gia biên tập và viết bài đã làm cho báo chí khoa học và công nghệ trở thành công cụ và phương tiện hữu hiệu trong việc truyền bá kiến thức, góp phần mở rộng tầm ảnh hưởng của báo chí Liên hiệp hội Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, hoạt động báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam được tiến hành trong điều kiện không ít khó khăn. Theo số liệu thống kê năm 2005 có 39,7% cán bộ làm việc chính nhiệm tại các toà soạn chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ báo chí, điều này đã dẫn đến một số hạn chế trong tác nghiệp hằng ngày. Thêm vào đó, trụ sở của nhiều toà soạn chật hẹp, trang thiết bị kỹ thuật thiếu và lạc hậu; hầu hết các cơ quan báo chí không có sự hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước, phải tự chủ, tự trang trải kinh phí. Mặt khác, phần lớn tạp chí của Liên hiệp hội Việt Nam có nội dung mang tính khoa học và công nghệ, thậm chí rất chuyên sâu, số lượng độc giả không nhiều, do vậy số lượng bản phát hành không lớn (theo số liệu thống kê năm 2005, 50% tạp chí của Liên hiệp hội Việt Nam xuất bản và phát hành dưới mức 1.000 bản/kỳ).
Những khó khăn nêu trên thực sự là trở ngại lớn đối với các cơ quan báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Vì thế, trong nhiều cuộc họp, hội thảo về báo chí-xuất bản và các buổi gặp mặt đại diện lãnh đạo các cơ quan báo chí vào dịp kỷ niệm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6 những năm gần đây, nhiều vấn đề lớn liên quan đến liên kết, chia sẻ thông tin, kinh tế báo chí, phát huy vai trò của báo chí khoa học và công nghệ thuộc Liên hiệp hội Việt Nam đã được đưa ra bàn thảo. Dưới đây là một số vấn đề rất cần được lưu tâm xem xét:
(1) Hầu hết báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam chưa chú trọng, chưa khai thác được thế mạnh về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp hội Việt Nam. Những báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam kịp thời phản ánh những vấn đề bức xúc trong xã hội (có căn cứ và cơ sở khoa học, có ý kiến xác đáng của các nhà khoa học) chắc chắn sẽ đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng thông tin của độc giả.
(2) Trong tiến trình hội nhập, báo chí khoa học và công nghệ nước ngoài có thể sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vì vậy, báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam cần chủ động chuẩn bị các phương án để tiếp tục duy trì, phát triển, đủ khả năng cạnh tranh với báo chí nước ngoài. Đối với một số tạp chí khoa học và công nghệ chuyên ngành có uy tín, nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ một phần kinh phí để đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng nội dung và hình thức trình bày của các tạp chí này.
(3) Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu liên kết, phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy, Liên hiệp hội Việt Nam và các cơ quan chủ quản báo chí trong Liên hiệp hội Việt Nam cần có kế hoạch phối hợp cụ thể để tăng cường sự chỉ đạo, đẩy mạnh các hoạt động này. Trong đó, cần nghiên cứu thử nghiệm hình thức liên kết phát hành và quảng bá báo chí, xây dựng kênh phát hành báo chí riêng để hỗ trợ một cách hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí.
(4) Hằng năm, trong điều kiện có thể, Nhà nước và Liên hiệp hội Việt Nam xem xét bố trí một khoản kinh phí để hỗ trợ cho công tác báo chí, coi khoản kinh phí này là khoản đầu tư để phát triển một hoặc một số cơ quan báo chí có tiềm năng và thế mạnh của Liên hiệp hội Việt Nam (căn cứ vào kế hoạch và phương án sử dụng nguồn kinh phí này của cơ quan báo chí), sau một khoảng thời gian quy định Liên hiệp hội Việt Nam sẽ thu hồi lại vốn đầu tư và tiếp tục hỗ trợ cho các cơ quan báo chí khác có nhu cầu (các cơ quan báo chí khi đủ mạnh về tài chính có thể có những đóng góp tài chính trở lại cho Liên hiệp hội Việt Nam và cơ quan chủ quản trực tiếp).
Với các vấn đề nêu trên, trong thời gian tới, để báo chí của Liên hiệp hội Việt Nam tiếp tục phát huy được vai trò của mình và trụ vững được trong điều kiện nền kinh tế thị trường, rất cần có sự nỗ lực của từng cơ quan báo chí, sự hỗ trợ của Liên hiệp hội Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí.








