Một số kết quả, kinh nghiệm về giải quyết các vấn đề xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trưởng, chính sách, chương trình, dự án nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, xây dựng khối đoàn kết toàn dân ở Tây Nguyên, tiêu biểu như Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên thời kỳ 1996 - 2000 và năm 2010 theo Quyết định 656-TTg ngày 13 - 9 - 1996 của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình Định hướng dài hạn 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên theo Quyết định 168/2001/QĐ–TTg ngày 30 - 10 - 2001 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, ngày 18 - 01 - 2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010, ngày 05 - 02 - 2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 25/2008/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010. ..Với sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các đảng bộ, chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên nên những kết quả đạt được về phát triển kinh tế - xã hội nói chung, giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu ở vùng đồng bào DTTS trên địa bàn Tây Nguyên là đáng được ghi nhận.
Về giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo theo Chương trình 134 đã được triển khai trên tục trong nhiều năm qua. Tính đến tháng 12 - 2008, đã giải quyết 5.726 ha đất sản xuất cho 15.899 hộ (đạt 78,03%); 224,7 ha đất ở cho 7.804 hộ (đạt 80,66%). Về nhà ở, đã làm mới, sửa chữa 58.249 căn, đạt 99,08% kế hoạch. Về nước sinh hoạt, đã giải quyết cho 30.391 hộ, đạt 74,65% kế hoạch. Đặc biệt là đã thực hiện thí điểm giao khoán khoảng 70.000 ha rừng cho 4.400 hộ đồng bào DTTS nghèo thiếu đất sản xuất. Một số nơi bước đầu phát huy hiệu quả nhờ vận dụng tốt cơ chế quản lý và hưởng lợi có thể nhân rộng ra như mô hình ở huyện Ea H’Leo (tỉnh Đắc Lắk), huyện K’Bang (tỉnh Gia Lai).
Các tỉnh đã có nhiều cố gắng trong công tác dạy nghề, giải quyết việc làm, từng bước giảm tỷ lệ thất nghiệp cho đồng bào DTTS. Trong 5 năm từ 2002 -2007, toàn vùng đã đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho 135.600 lao động DTTS, tuyển dụng 11.300 người vào các công ty, nông trường, đưa số lao động DTTS trong các doanh nghiệp lên 15.568 người. Tính đến hết năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên có khoảng 1 triệu lao động được giải quyết việc làm, trong đó trên 180.000 lao động DTTS.
Công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai liên tục bằng nhiều giải pháp với gần với 111.000 hộ được xóa nghèo. Đã giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đói triền miên trong vùng đồng bào DTTS và giảm tỷ lệ hệ DTTS nghèo từ 57,84% năm 2005 xuống còn 40,20% năm 2007, còn 32,93% năm 2008 và đến năm 2010 xuống còn 19,9% năm 2010.
Giáo dục vùng DTTS được quan tâm đúng mức, nhờ đó mà hệ thống trường, lớp của các cấp học, bậc học trong vùng dân tộc thiểu số được mở rộng, đáp ứng phần lớn nhu cầu học tập của con em đồng bào DTTS. Cơ sở vật chất trường lớp cải thiện khá rõ, từng bước xóa bỏ tình trạng học ba ca. Nhiều chính sách giáo dục được thực hiện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như tăng mức hỗ trợ học phí cho học sinh dân tộc thiểu số, cấp không sách vở học sinh, hỗ trợ học phí cho học sinh trường bán trú dân nuôi, do vậy, số học sinh DTTS cũng tăng theo thời gian. Theo đó, trong năm học 2003 - 2004, toàn vùng Tây Nguyên có 460.518 học sinh dân tộc thiểu số thì đến năm học 2006 - 2007 đã tăng lên 503.711 học sinh, tăng 43.193 học sinh. Tính đến đầu năm 2010, toàn vùng Tây Nguyên đã có 96% số xã hoàn thành xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 85% số xã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở; tỷ lệ trong độ tuổi đến trường giữ vững 98,7%.
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được quan tâm hơn, đạt được những kết quả quan trọng. Tính đến tháng 9 - 2008, có 99,26 xã, phường có trạm y tế; 45,19% xã, phường có bác sĩ. Đội ngũ cán bộ y tế thôn, buôn được tăng cường. Nhiều dịch bệnh đã từng bước được khống chế (sốt rét, lao giảm, bướu cổ,...). Hầu hết đồng bào DTTS đều được cấp thẻ bảo hiếm khám, chữa bệnh miễn phí.
Về văn hóa, công tác nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn văn hóa dân tộc đã đạt được một số kết quả tích cực. Tháng 11 - 2005, "Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên”, đã được UNESCO công nhận là "kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại”. Đây là niềm tự hào không chỉ của riêng vùng đất Tây Nguyên mà còn là niềm tự hào của nền văn hóa Việt Nam, mở ra cơ hội phát triển kinh tế, văn hóa, tạo điều kiện để giữ gìn vốn văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc ta. Các tỉnh ở Tây Nguyên từng bước đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cấp xã, thôn, buôn. Tính đến hết năm 2007, đã xây dựng 2.135 nhà Rông, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng, công nhận 4. 655 thôn, buôn văn hóa (67% số thôn, buôn, tổ dân phố). Mạng lưới phát thanh - truyền hình được mở rộng, cơ bản phủ sóng hầu hết các khu vực dân cư, phát sóng với thời lượng ổn định bằng nhiều thứ tiếng DTTS, bảo đảm ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin, truyền thông của đồng bào các dân tộc.
Những kết quả đạt được trên đây là đáng được ghi nhận, nó chứng tỏ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã và đang từng bước đi vào cuộc sống vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Đạt được những kết quả trên là nhờ có sự tập trung trong lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, sự điều hành tập trung, quyết liệt của các cấp, các ngành địa phương trên địa bàn Tây Nguyên. Đó còn là kết quả của sự vươn lên mạnh mẽ của đồng bào các dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số đã đóng góp vào sự phát triển chung của toàn vùng Tây Nguyên.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc giải quyết các vấn đề xã hội vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên còn có nhũng hạn chế, đó là: công tác xóa đói giảm nghèo chưa vững chắc, bộ phận dân cư cận nghèo và tái nghèo còn rất lớn , nhất là ở vùng đồng bào DTTS tại chỗ. Tỷ lệ hộ đói nghèo trong đồng bào DTTS còn cao. Tình trạng thanh niên DTTS thiếu việc làm còn nhiều, đang trở thành vấn đề bức xúc.
Công tác định canh, định cư và sắp xếp ổn định dân di cư tự do còn nhiều bất cập, thiếu quỹ đất đáp ứng lâu dài cho tách hộ đồng bào DTTS. Việc giải quyết các vấn đề liên quan giải tỏa, đền bù, tái định canh, định cư khi xây dựng các cộng trình thủy điện, thủy lợi chưa thực sự tốt, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân.
Việc tổ chức thực hiện các chính sách về đất đai, nhà ở, việc làm còn rất chậm và lúng túng. Mục tiêu giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số chưa hoàn thành với hơn 11.000 hộ chưa có đất sản xuất. Một số nơi giải quyết đất sản xuất cho đồng bào là đất xấu, độ dốc cao, xa nơi ở nên việc sản xuất không mang lại hiệu quả. Chính sách giao đất, giao rừng và xã hội hóa nghề rừng chậm tiến triển. Rừng gắn liền với tập quán sản xuất và sinh sống của đồng bào DTTS nhưng chưa có chính sách và giải pháp phù hợp để đồng bào gắn bó, cải thiện cuộc sống từ rừng, ngay cả đối với các hộ đang sống trong vùng lõi của các vườn quốc gia. Đây là những vấn đề tác động không nhỏ đến sự ổn định và phát triển của vùng Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay và cả lâu dài về sau.
Việc nâng cao dân trí, cải thiện đời sống tinh thần cho đồng bào DTTS còn yếu kém. Các phong trào, hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao trong vùng đồng bào DTTS nặng về hình thức, chưa đi sâu vào việc giữ gìn, phát huy tập quán, bản sắc văn hóa dân tộc. Phần lớn nhà văn hóa cộng đồng ở nhiều buôn làng không phát huy được hiệu quả, thiếu nội dung, phương tiện sinh hoạt văn hóa theo phong tục, tập quán của đồng bào. Chất lượng dạy và học trong vùng DTTS thấp so với mặt bằng chung. Tỷ lệ bỏ học còn nhiều, hệ thống trường dân tộc nội trú chưa đáp ứng được yêu cầu cả về cơ sở vật chất, số lượng và chất lượng học sinh, trường dạy nghề chưa được mở rộng. Việc dạy song ngữ nhiều nơi mới ở dạng thí điểm, công tác tạo nguồn và thực hiện chế độ cử tuyển học sinh DTTS chưa hợp lý.
Tổng kết, đánh giá, chỉ rõ kết quả đã và chưa làm được, từ đó rút ra những kinh nghiệm góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn Tây Nguyên đạt kết quả tốt hơn trong các giai đoạn tiếp theo là rất cần thiết. Bước đầu có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là,để giải quyết các vấn đề xã hội vùng đồng bào DTTS có hiệu quả, cần phải tập trung, kết hợp giải quyết đồng bộ cả chính trị - tư tưởng, kinh tế, an ninh - quốc phòng, gắn đầu tư phát triển kinh tế với chăm lo giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, nhất là hệ thống chính trị cơ sở. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đòi hỏi phải có sự quan tâm, phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương; phải có cơ chế, giải pháp đồng bộ để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng vùng, từng địa phương. Trong xử lý, giải quyết những vấn đề thực tiễn, cụ thể phải luôn coi trọng tính đặc thù, đặc điểm, tâm lý, phong tục, tập quán của đồng bào DTTS. Chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách.
Hai là,phải xác định giải quyết các vấn đề xã hội nói chung, công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm, phải được tập trung chỉ đạo với nhiều giải pháp tích cực. Phải tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn để phục vụ cho việc phát triển các ngành nghề nông nghiệp, phi nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số có đường giao thông đi lại cả hai mùa, có điện, hệ thống cấp nước, trạm y tế, trường học và các dịch vụ thiết yếu khác. Phải tổ chức lại sản xuất theo hướng hàng hóa, lấy nền tảng kinh tế hộ của đồng bào làm cơ sở. Trên cơ sở đó, nghiên cứu, lựa chọn xây dựng những mô hình làm ăn có hiệu quả, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng dân tộc để giúp nâng cao khả năng và kỹ năng sản xuất hàng hóa của đồng bào. Tổ chức lại mạng lưới hệ thống khuyến nông, khuyến lâm đến hộ đồng bào, tiếp tục giải quyết đất sản xuất, giao rừng, khoán rừng cho cộng đồng buôn làng ở những nơi gần rừng để làm thế nào đồng bào có việc làm, tăng thu nhập.
Ba là, phải xây dựng con người vùng đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên có đủ trình độ, tri thúc - đây là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, giải quyết các vấn đề xã hội nói riêng. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, các định hướng cho việc phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội chưa được thực hiện tốt, có những lĩnh vực phát triển chưa bền vững,... Trong đó, nguyên nhân chính là do trình độ của đồng bào còn thấp, chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra.
Do đó , muốn phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội có hiệu quả, phải xây dựng con người mới với nhận thức và tri thức cần thiết để đồng bào có thể thực hiện các dự án định canh định cư, phát triển kinh tế - xã hội , y tế, giáo dục. Không có con người mới với nhận thức và tri thức cần thiết thì không thể triển khai có hiệu quả các dự án định canh định cư, phát triển kinh tế - xã hội, y tế, giáo dục. Xây dụng con người mới cả người lãnh đạo quản lý lẫn người lao động trục tiếp có đủ những năng lực cần thiết, đây là giải pháp đầu tiên và then chốt, giải pháp của những giải pháp trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa. Phải tập trung làm thay đổi các tập quán sản xuất lạc hậu, mang tính tự nhiên, tự cấp, tự túc để giúp đồng bào có đủ tri thức về kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật mới để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội.
Tóm lại, giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên là một yêu cầu bắt buộc khi đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủcông bằng, văn minh. Để thực hiện được mục tiêu trên, không chỉ đòi hỏi nhận được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các bộ, ngành trung ương, mà đòi hỏi các đảng bộ, chính quyền các tỉnh ở Tây Nguyên phải tập trung công sức, trí tuệ để nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp đồng bộ mang tính khoa học, thực tiễn sớm đưa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa có cuộc sống ấm no hạnh phúc.








