Một số hiện tượng văn hóa độc đáo nửa đầu thế kỷ XX
1. Đào Duy Anh và sự ra đời của Quan hải tùng thư
Sau cuộc gặp gỡ với cụ Phan Bội Châu ở Đồng Hới (1925) và lễ tang Phan Chu Trinh (1926), Đào Duy Anh quyết định rời bỏ "chốn ao tù để tìm nơi trời cao biển rộng hơn" để góp phần "mở mang dân trí và bồi đắp dân quyền" trên con đường đi đến độc lập của dân tộc. Đây là quãng thời gian hoạt động đầy sôi nổi của người thanh niên Đào Duy Anh: cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng sáng lập ra báo Tiếng dân,tờ báo "thét tiếng dân giữa kinh thành Huế"; gia nhập Đảng Tân Việt, sau đó trở thành người lãnh đạo của Đảng và xây dựng nên nxb Quan hải tùng thư.
Quan hải tùng thưra đời đầu năm 1928 tại Huế, nơi mà chế độ kiểm duyệt của Pháp và triều đình nhà Nguyễn ngặt nghèo hơn bất kỳ nơi nào khác. Nhà xuất bản nằm trên phố Hàng Bè, hoạt động đến tháng 7-1929 thì bị đình bản do việc người sáng lập, đồng thời là người chịu trách nhiệm chính, Đào Duy Anh, bị thực dân Pháp bắt và bỏ tù. Sau khi Đào Duy Anh được trả tự do vào năm 1930, Quan hải tùng thưtiếp tục trở lại hoạt động và từ đó trở đi, chủ yếu xuất bản sách do Đào Duy Anh viết. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ năm 1946, Quan hải tùngthưchính thức ngừng hoạt động. Mục đích của nhà xuất bản này là "lợi dụng việc xuất bản hợp pháp mà gieo vào tâm trí của thanh niên ta một ít kiến thức sơ đẳng về chủ nghĩa Mác, lẫn một ít kiến thức mới về khoa học, nhất là khoa học xã hội, là những điều cần thiết để hiểu chủ nghĩa Mác dễ hơn". Như vậy, ngay từ ban đầu, Quan hải tùng thưđã được xác định là nơi chuyên xuất bản sách khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác. Nó là sự hiện thực hóa khát vọng mở mang dân trí của người sáng lập, người đã tự nhận mình như con chim Tinh Vệ, nguyện suốt đời gắp từng hòn sỏi "góp phần vào công việc lấp bể học mênh mông bát ngát". Ngay tại hai thành phố lớn của nước ta lúc đó, Hà Nội và Sài Gòn, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn ở Huế trong việc xuất bản sách báo, nhưng cũng chưa có nhà xuất bản nào làm công việc đó thì sự ra đời một nhà xuất bản công khai in các sách về khoa học xã hội và tư tưởng cách mạng như Quan hải tùng thưlà một hiện tượng hiếm thấy. Hoàn toàn có thể khẳng định rằng, Quan hải tùng thưlà nhà xuất bản đầu tiên ở Việt Nam xuất bản mảng sách này. Điều đó có ý nghĩa lớn lao trong điều kiện mà mỗi từ ngữ về khoa học, về cách mạng còn hết sức lạ lẫm với đại đa số người dân Việt Nam và người xuất bản ra nó sẵn sàng có thể chịu cảnh lao tù dưới chế độ thực dân.
Quan hải tùng thưra đời khi tờ báo Tiếng dânmà Đào Duy Anh là thư ký tòa soạn đã có uy tín rộng khắp, đặc biệt là dải đất miền Trung. Đặc biệt, phong trào Tân thư đã lan tới Việt Nam và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tầng lớp trí thức lúc đó. Trong bối cảnh Việt Nam rơi vào thân phận thuộc địa, các phong trào yêu nước đều thất bại, nhiều bậc sĩ phu, trí thức Việt Nam đã tỉnh dậy khỏi "giấc mơ giáo điều phương Đông", tiếp nhận phong trào Tân thư ở Nhật Bản, Trung Quốc để tìm hướng đi mới cho dân tộc. Nhu cầu muốn thức tỉnh dân tộc, tự phê phán mình đã dẫn đến kết quả là các thế hệ trí thức Việt Nam, từ những sĩ phu tiến bộ ở cuối TK XIX cho đến những sĩ phu tư sản hóa ở đầu TK XX và thế hệ trí thức Tây học đều chịu ảnh hưởng của Tân thư. Họ đã tiếp nhận một cách nồng nhiệt những tư tưởng mới từ những sách báo của các nhà cải cách Nhật Bản, Trung Quốc với những tên tuổi rất hấp dẫn thời bấy giờ như Phúc Trạch Dụ Cát, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ...Đồng thời, qua Tân thư, trí thức Việt Nam đã tiếp cận với những tác phẩm của các nhà khai sáng Pháp (Rutxô, Mongtetxkiơ. ..) và các nhà triết học châu Âu, Mỹ TK XIX, đầu TK XX. Đây là những nhân tố thuận lợi để cho Đào Duy Anh và các cộng sự của ông thực hiện được tôn chỉ, mục đích của mình và tạo nên những ảnh hưởng trong xã hội lúc đó.
2. Một hoạt động văn hóa của trí thức
Hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến với ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo đã hình thành nên tầng lớp nho sĩ đông đảo trong xã hội Việt Nam . Ở đầu TK XX, với những biến chuyển mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tầng lớp nho sĩ dần dần rút lui khỏi vũ đài lịch sử. Thay vào đó là tầng lớp trí thức mới, lực lượng chủ đạo trong công cuộc hiện đại hóa văn hóa dân tộc. Một nét mới của trí thức giai đoạn này là đã quan tâm đến tổ chức và có nhiều hình thức sinh hoạt rộng rãi. Chính nhờ có họ mà không khí sinh hoạt chính trị, học thuật hay ngành nghề trong nước khởi sắc hơn lên. Giai đoạn này chứng kiến sự ra đời của hàng loạt hội trí thức, có hội do chính quyền bảo trợ như Hội Khai trí tiến đức, có hội do trí thức tự lập nên như Hội Trí tri, có những hội ngành nghề như Hội Lương hữu báo chí (Bắc kỳ)... Đặc biệt, báo chí thực sự là nơi sinh hoạt của các trí thức Việt Nam . Diễn đàn báo chí trình bày quan điểm, nhận định của giới trí thức, phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng, các hoạt động phong trào. Báo chí là nơi tập trung những trí thức cùng theo một khuynh hướng chính trị hay có xu hướng trung lập, tập hợp riêng những cây bút cùng xu hướng. Những nhóm trí thức có sự nhất trí với nhau về một hướng đi, một tôn chỉ gần gũi, chẳng hạn Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí,báo Tiếng dân,báo Thanh nghị...Tùng thư hay thư xã cũng là một trong những hình thức như vậy. Cùng với Nam đồng thư xãở miền Bắc, Trí đức học xá,Cường học thư xãở miền Nam, Quan hải tùng thưra đời là nơi tập hợp, nơi sinh hoạt của những trí thức ở miền Trung lúc đó, đa số là những trí thức trẻ tuổi, cùng chí hướng, cùng mục đích cho ra đời những tập sách nhằm phổ biến quan điểm và nhận thức mới, trong đó, chỉ có một nhân vật nòng cốt là chuyên trách, thực sự là người có vốn tri thức và đó chính là Đào Duy Anh. Những cộng sự của Đào Duy Anh ở Quan hải tùng thưđều là những trí thức yêu nước, có tiếng lúc bấy giờ như Trần Đình Nam, Võ Liêm Sơn, Phan Đăng Lưu ... Trong đó, Trần Đình Nam là một thanh niên trí thức có tiếng nhất ở Huế lúc bấy giờ, là người "ái quốc, học rộng, quảng giao" thường tập hợp những trí thức trẻ ở Huế hội họp để trao đổi ý kiến về những vấn đề thời sự và tham gia những việc xã hội. Võ Liêm Sơn là thày học của Đào Duy Anh, vốn là nhà nho, một trong những người hoạt động xã hội có tiếng ở Huế, đặc biệt có ảnh hưởng mạnh trong giới học sinh. Phan Đăng Lưu, người sau này trở thành ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương là một trí thức có vốn học rộng, thạo chữ Hán, đọc được bạch thoại. Đây là những người cộng tác tích cực với Đào Duy Anh trong công tác xuất bản sách của Quan hải tùng thư.Họ hoàn toàn tán thành mục đích mà Đào Duy Anh khởi xướng, tham gia xây dựng chương trình xuất bản và trực tiếp viết sách hoặc dịch từ sách nước ngoài. Nhiều người trong số này đã trở thành đồng chí của Đào Duy Anh trong đảng Tân Việt và sau đó là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Chính những sinh hoạt học thuật ở Quan hải tùng thưlà môi trường thuận lợi cho việc tập hợp những trí thức yêu nước. Những con người đó cho dù ở điều kiện nào luôn thể hiện lòng nhiệt thành với đất nước và cố gắng đóng góp sức mình cho sự nghiệp chung của dân tộc.
3. Hành trình xây đắp văn hóa dân tộc
Cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây đã tạo nên những thay đổi to lớn đối với văn hóa Việt Nam đồng thời xuất hiện nhu cầu tìm hiểu về văn hóa theo những cách tiếp cận mới. Nhiều trí thức lúc bấy giờ đã nhận thấy sự cần thiết phải ý thức rõ về mình, về người, về sứ mệnh lịch sử của Việt Nam trong tương quan tinh thần cũng như thực tế của thế giới hiện đại. Yêu cầu đó đặt ra vấn đề phải tìm hiểu văn hóa, văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại... Là một người trong số đó, Đào Duy Anh cũng đã sớm nhận ra điều này: "Cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa tây phương. Cuộc xung đột ấy sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức là một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới". Những cuốn sách được Quan hải tùng thư- bộ sách nhìn ra bốn bể, xuất bản như một sự giải đáp cho câu hỏi đó, theo cách của bậc thức giả Đào Duy Anh: giới thiệu những tri thức mới và tổng kết lại những di sản trong kho văn hóa của dân tộc, làm cơ sở cho việc tiếp thu cái mới.
Mười ba tập sách của Quan hải tùng thưtrong giai đoạn đầu tiên tập trung giới thiệu những tri thức mới về cả tư tưởng, phương pháp, công cụ tư liệu, biến nó thành "vốn liếng và lợi khí làm thức tỉnh quần chúng còn đang chìm trong lạc hậu, trang bị đầu óc cho lớp người đang phải lần đường bằng tranh đấu và tự học". Đó là cuốn Trí khôncủa Trần Đình Nam viết nhằm giải thích cấu tạo và hoạt động của bộ óc; Thế giới cường quốccủa Trần Mạnh Nhẫn nói về các chính thể dân chủ trên thế giới; Xã hội luậncủa Phan Đăng Lưu dịch nhằm giải thích sự tiến hóa của xã hội loài người là theo quy luật khách quan chứ không theo ý chí chủ quan của con người. Võ Liêm Sơn phiên dịch hai tập Đông Tây văn hóa phê bìnhcủa Đông phương văn khố và viết cuốn Hài vănnhằm phê phán chế độ quan lại và chế độ thực dân thống trị (tập sách vừa mới ra đời bị cấm và tịch thu ngay). Riêng Đào Duy Anh đã dịch và viết các cuốn: Lịch sử các học thuyết kinh tế(quyển thượng, dịch theo các sách chữ Pháp và chữ Hán, quyển hạ do Phan Đăng Lưu lược dịch theo cuốn Kinh tế học thuyết sử của Nhật Bản), Phụ nữ vận động(dịch), Lịch sử nhân loại(phỏng dịch), Tôngiáo làgì? Dân tộc làgì?Trong mỗi cuốn sách này, ở phần cuối, Quan hải tùng thưcòn cố gắng in thêm mục giải thích những từ ngữ khó hiểu. Đây là cơ sở để cho sau này, Đào Duy Anh biên soạn Hán Việt từ điển(1931) và Pháp Việt từ điển(1936).
Hai cuốn từ điển mà Quan hải tùng thưxuất bản đánh một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của tiếng Việt và ảnh hưởng đối với xã hội của nó thật lớn lao. Trong một thời gian dài, kể từ khi quyển từ điển của Alexandre de Rhodes ra đời cho đến những năm 30 của TK XX, việc biên soạn từ điển, văn phạm tiếng Việt được xem như lãnh địa riêng của người Pháp, những người viết từ điển lúc đó giữ quan niệm rằng, công việc soạn từ điển đã "cho người phương Nam phương tiện để viết và học ngôn ngữ của chính họ". Vào thời điểm đó, một số người Pháp thông thuộc chữ Quốc ngữ nhận định, tiếng Việt thuộc loại "ngôn ngữ cấp thấp, quá đơn giản về âm nghĩa, cú pháp, không có khả năng phát triển và sử dụng được để diễn đạt tư tưởng cao xa, do đó cần nhanh chóng cho học sinh chuyển sang học chữ Pháp". Ngay bản thân người Việt Nam cũng phàn nàn về sự khó khăn khi phải dùng chữ quốc ngữ "lai căng với chữ Hán"và đề nghị chính quyền thuộc địa bãi bỏ việc sử dụng chữ quốc ngữ như ngôn ngữ chính thức trong văn kiện hành chính mà dùng luôn chữ Pháp cho thuận tiện. Với hơn bốn vạn từ, bao gồm khối lượng lớn từ cổ được trích dẫn từ các tác phẩm văn chương Việt Nam và các từ mới, Hán Việt từ điển và Pháp Việt từ điển đã làm "sụp đổ toàn bộ lý luận cho rằng người Pháp đã khai sinh và vun bồi một nền văn tự và văn học mới". Điều đó cũng có nghĩa là, việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt chỉ có thể là công việc của người sử dụng ngôn ngữ đó như tiếng mẹ đẻ, còn những người khác, cho dù có lý thuyết, có cái nhìn phân tích, tổng hợp, họ chỉ làm "công việc chuyển âm, tiếp thu được tiếng Việt như một ngoại ngữ".
Hai cuốn từ điển ra đời đã đáp ứng được nhu cầu lúc đó khi mà nhiều người tuy thông thạo tiếng Pháp nhưng lúng túng trong tiếng Việt và không hiểu được từ ngữ Hán Việt. Nhờ đó, nhiều người thông hiểu, sử dụng được nhiều từ để diễn đạt tư tưởng, phát triển tư duy, đọc sách viết báo, nghiên cứu và tham gia hoạt động xã hội, chính trị. Điều đặc biệt là, cùng với các cuốn sách khác, hai cuốn từ điển mà Quan hải tùng thưxuất bản đã góp phần quan trọng trong việc giới thiệu chủ nghĩa Mác qua con đường công khai vào Việt Nam . Ngày nay đọc lại, chúng ta có thể thấy hàng loạt khái niệm như đảng cộng sản, chủ nghĩa cộng sản, tuyên ngôn của đảng cộng sản, duy vật sử quan, thặng dư giá trị... được giải thích ngay trong các ấn phẩm của Quan hải tùng thư.Đặt trong bối cảnh những năm đầu của thập kỷ 30, TK XX, khi mà Đảng Cộng sản Đông Dương đang bị thực dân Pháp khủng bố, cách mạng đang gặp nhiều khó khăn, việc truyền bá chủ nghĩa Mác theo cách thức của Quan hải tùng thưlà độc đáo, sáng tạo và có ý nghĩa quan trọng. Có thể nói, ngoài việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin vào Việt Nam theo con đường bí mật, Quan hải tùng thưlà nơi truyền bá công khai, rộng rãi học thuyết này, tạo nên những ảnh hưởng nhất định đối với xã hội, đặc biệt là với tầng lớp thanh niên, mặc dù mới chỉ là sơ khai. Sau này, trong bản báo cáo về văn hóa Việt Nam ở Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1948 tại Việt Bắc, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đánh giá cao vai trò của Quan hải tùng thưtrong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin ở Việt Nam. Cũng vì vậy, Trần Quốc Vượng mệnh danh Đào Duy Anh là một trong những nhà mác xít đầu tiên của Việt Nam, kiểu Plêkhanôp của nước Nga. Trong bài phát biểu nhân lễ mừng thọ Đào Duy Anh 80 tuổi, người em trai của ông, nhà nghiên cứu Đào Phan đưa ra một nhận định đúng đắn rằng: hiện thực lịch sử từng chứng tỏ Quan hải tùng thưđã tự mình gánh vác phần nặng nhọc đi trước thiên hạ, để làm nhiệm vụ của một nhà xuất bản tiên phong trong việc công khai truyền bá các tư tưởng cách mạng, nhất là một số kiến thức sơ bộ về lý luận khoa học của Mác và Lê nin ở Việt Nam.
Giai đoạn tổng kết những di sản của văn hóa dân tộc mở đầu bằng cuốn sách Việt Nam văn hóa sử cươngnăm 1938. Sau giai đoạn giới thiệu cái mới, khi luồng gió mới đã chiếm ưu thế, Quan hải tùng thưlại giới thiệu cái cũ, "tổng kiểm tra lại di sản của quá khứ... để có cơ sở tinh thần mà tiêu hóa cái mới, để đừng vong bản, để ta vẫn là ta tuy có đổi mới, ta: con người của một địa vực, có gốc có nòi, có truyền thống lâu bền". Vượt xa khỏi mục đích ban đầu, công trình này đã có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam "đáng có chỗ trong mọi tủ sách gia đình". Cho đến nay, cuốn sách đã ra đời hơn 70 năm và được tái bản rất nhiều lần. Nó không chỉ quen thuộc với giới nghiên cứu văn hóa, lịch sử, dân tộc học mà còn được nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác và bạn đọc đông đảo quan tâm. Chỉ thế cũng đủ nói lên sức sống và hấp dẫn của cuốn sách này. Trong điều kiện những tư liệu về lịch sử, văn hóa Việt Nam còn rất phân tán, rải rác, vụn vặt và nhiều khi mâu thuẫn, Đào Duy Anh đã hệ thống hóa để biên soạn một tác phẩm có đề tài rộng nhưng "thanh thoát đến độ ai đọc cũng được, không bực mình trước những biểu hiện của giáo điều, không khiếp hãi trước mớ tư liệu ngồn ngộn". Bước đầu sử dụng các phương pháp phân tích khoa học của chủ nghĩa Mác, phương pháp rất mới đối với giới nghiên cứu lúc đó, Đào Duy Anh đã trình bày khá toàn diện những nội dung của lịch sử văn hóa Việt Nam, giúp người đọc hình dung được diện mạo của văn hóa dân tộc. Với Việt Namvăn hóa sử cương,Đào Duy Anh là người đầu tiên khái quát một cách hệ thống các đặc tính, bản sắc của văn hóa Việt Nam . Các công trình được xuất bản sau đó như Khổnggiáo phê bình tiểu luận(1938), Khảo luận về Kim Vân Kiều(1943)..., ở những góc độ khác nhau, cũng nhằm hướng tới nghiên cứu những giá trị của văn hóa dân tộc.
Như vậy, với thời gian tồn tại không dài, số lượng tác phẩm được xuất bản không quá đồ sộ, nhưng những gì mà Quan hải tùngthưđể lại đã đóng góp một vị trí quan trọng trong hành trình của văn hóa dân tộc. Nhất quán với tôn chỉ mục đích đề ra, Đào Duy Anh và các cộng sự, một mặt khẩn trương giới thiệu những tri thức mới, những công cụ mới ở cả Đông và Tây để nâng cao dân trí, mặt khác lại miệt mài kiểm kê lại vốn di sản của văn hóa dân tộc. Hai quá trình đó đều là cuộc hành trình đến tới khát vọng gây dựng được một nền văn hóa riêng cho dân tộc mình, một nền văn hóa có bản sắc, có khả năng thâu thái tinh hoa của các dân tộc khác và nhất là phải độc lập trong quá trình tiếp xúc với thế giới.








