Một số giải pháp xử lý ngộ độc mặn cho cây lúa
Các giống lúa chịu mặn hiện nay, thông thường chịu được độ mặn khoảng 3 - 4‰, một số giống chịu được cao hơn như: Một Bụi Đỏ chịu được độ mặn 6 ‰ này được tính là độ mặn trong đất. Do đó nếu đất ngọt mà có nước mặn xâm nhập vào cũng không ảnh hưởng đáng kể đến cây lúa nếu như không để ruộng lúa bị khô. Do vậy cần giữ mực nước ngọt 3 - 5cm trên mặt ruộng, nếu ruộng khô, nước ruộng bay hơi làm nước mặn sẽ theo các mao dẫn dâng lên, làm tăng dần độ mặn của đất dẫn tới cây lúa sẽ bị ngộ độc mặn.
Khi thấy nước có nguy cơ cạn trên ruộng lúa ở nền đất nuôi tôm, nếu không có mưa hoặc không có nước ngọt, có thể tiến hành đưa nước có độ mặn 5 - 6 ‰ vào ruộng để tránh độ mặn xâm nhập vào trong đất khi ruộng bị khô cạn, nhưng lưu ý khi đưa nước mặn vào phải đưa liên tục 2 – 3 ngày sau đó bơm ra đưa nước khác vào, vì nếu để lâu nước bốc hơi và độ mặn lại tiếp tục tăng lên gây hại cho cây lúa.
* Biểu hiện ngộ độc mặn
Có 2 triệu chứng ngộ độc mặn gây ra trên cây lúa:
- Biểu hiện trực tiếp: các độc chất Na + sẽ làm cho chóp lá bị cháy, do khi cây lúa hút nước mặn thải ra ở chóp lá sẽ đọng lại những độc chất Na + (muối), dưới tác động của ánh nắng mặt trời sẽ làm cho lá lúa bị cháy từ chóp lá.
- Biểu hiện gián tiếp: Na + trong đất và nước sẽ làm cho rễ cây lúa không hút được nước, dẫn tới không hút được đạm và kali, do đó khi bị ngộ độc mặn cây lúa sẽ thiếu đạm và kali.
Vào giai đoạn lúa trỗ, quan sát thấy 2 vỏ trấu màu trắng, không có hạt do không thụ phấn được là biểu hiện cây lúa bị ngộ độc mặn.
* Phòng ngừa ngộ độc mặn
- Thăm đồng thường xuyên và củng cố đê bao ngăn mặn. Vào thời điểm triều cường từ biển vào rất mạnh, nếu bờ đê giữ không tốt thì mặn sẽ xâm nhập vào, nên phải củng cố đê bao thật tốt. Nếu để ruộng khô nứt nẻ thì nước mặn sẽ xâm nhập theo những kẽ nứt nẻ đó vào ruộng lúa.
- Đối với vùng luân canh tôm - lúa, sau khi thu hoạch lúa xong, chuẩn bị nuôi tôm không để đất khô nứt nẻ quá vì như vậy nước mặn sẽ thẩm thấu dần theo các vết nứt xâm nhập lên tầng đất mặt.
- Khuyến cáo nông dân kinh nghiệm để kiểm tra độ mặn trong đất: tiến hành đào một hay vài hố trên ruộng lúa trước khi xuống giống, sau khi tháo hết nước trên ruộng, múc hết nước từ hố ra, để cho nước trong đất rỉ ra hố và dùng dụng cụ đo độ mặn để xác định độ mặn, nếu độ mặn còn 1 – 2‰ thì chưa nên xuống giống bởi vì khi hạt giống đang nảy mầm, gặp độ mặn thì mầm lúa sẽ bị quăn lại.
- Nếu đất mặn không bị phèn thì bón Ca(SO 4) 2, ở đồng bằng sông Cửu Long thông thường là mặn kèm theo phèn nên tốt nhất là bón vôi nung, liều lượng 30 - 50 kg/1.000 m 2, khi làm đất bón vôi, đưa nước vào ruộng cho vôi hòa ra đẩy mặn đi sau đó tháo nước ra, rồi đo độ mặn, nếu độ mặn dưới 1‰ thì mới an toàn để tiến hành chuẩn bị cho việc gieo sạ.
- Phòng ngừa ngộ độc mặn được thực hiện ngay từ đầu vụ, vì giai đoạn mạ cây lúa rất mẫn cảm với độ mặn. Trong giai đoạn cây lúa làm đòng, trỗ nếu bị ngộ độc sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất và chất lượng hạt lúa, ngộ độc mặn nặng sẽ dẫn đến thất thu. Biện pháp giải độc mặn cho cây lúa giai đoạn này là có thể theo dõi triều cường đưa nước ngọt vào cứu lấy cây lúa.
* Kinh nghiệm theo dõi triều cường để đưa nước ngọt vào giải độc mặn cho cây lúa
Ở đồng bằng sông Cửu Long nước trong nội đồng là nước ngọt, khi nước ròng thì nước từ trong nội đồng đi ra biển là nước ngọt, khi triều cường dâng lên, nước từ biển đi vào nội đồng là nước mặn, nên bà con cần theo dõi đến khi nước ròng thì múc nước lên đo độ mặn, nếu độ mặn dưới 1 – 2‰ thì đưa máy bơm nước vào ruộng, khi triều cường lên lại đo độ mặn nếu độ mặn cao hơn thì ngừng đưa nước vào ruộng.
Lưu ý: Nước mặn nặng và nằm ở tầng dưới, nước ngọt nằm ở tầng trên, nên khi bà con múc nước ở tầng trên lên đo độ mặn, mà đưa máy bơm sâu xuống lấy nước thì sẽ bơm nước có độ mặn hơn nước ở tầng trên.