Một số giải pháp quản lý Nhà nước nhằm phát triển sản phẩm tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam
Ở Việt Nam , TKNL là một chủ trương lớn, được Chính phủ hết sức quan tâm, trở thành một cuộc vận động sâu rộng và nhận được sự ủng hộ của toàn xã hội. Nhiều chính sách, biện pháp và chương trình TKNL được ban hành và đang được thực hiện một cách hiệu quả. Trên thị trường nước ta, các SPTKNL ngày càng đa dạng và phong phú, người tiêu dùng và DN có ý thức ưu tiên sử dụng các SPTKNL.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển các SPTKNL. Tuy nhiên, trong thời gian qua, SPTKNL chưa được sản xuất và thương mại hóa một cách rộng rãi. Những khó khăn trong phát triển sản phẩm này, trước hết, là khung khổ chính sách chưa đầy đủ và chưa thực sự khuyến khích các DN đầu tư phát triển; sự hỗ trợ từ phía Nhà nước còn hạn chế, nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng về sản phẩm than thiện môi trường còn chưa cao. Bên cạnh đó, đầu tư phát triển SPTKNL đòi hỏi nhiều vốn, trong khi các doanh nghiệp nước ta phần lớn là các DN vừa và nhỏ. Hệ thống phân phối SPTKNL còn nhỏ lẻ, phân tán. Chính vì vậy, trong thời gian tới cần có những chính sách khuyến khích hơn nữa phát triển các SPTKNL nói chung và thị trường SPTKNL nói riêng.
1.Thực trạng phát triển các sản phẩm tiết kiệm năng lượng ở Việt Nam .
Các SPTKNL ngày càng khá phổ biến trên thị trường Việt Nam , bao gồm:
Nhóm SPTKNL gồm các loại thiết bị TKNL như bóng đèn tiết kiệm điện: thiết bị đun nóng nóng nước bằng năng lượng mặt trời; thiết bị tiết kiệm điện cho các kho lạnh; tiết kiệm dầu trong các lò đốt, phương tiện giao thông, tàu đánh cá; thiết bị khuếch đại ánh sáng cho các nhà máy, xí nghiệp, văn phòng, trường học và hộ gia đình; một số lò nung của nhà máy luyện kim, xi măng, gốm sứ, vật liệu xây dựng…Các sản này chủ yếu được nhập khẩu, nhiều nhất là từ Trung Quốc, như: các loại bóng đèn TKNL, máy điều hòa nhiệt độ, quạt điện, nồi cơm điện, bình đun nước, phương tiện vận tải. Các SPTKNL cũng đã được sản xuất ở trong nước, phổ biến nhất là bóng đèn TKNL compact. Theo đánh gía sơ bộ, đến cuối năm 2008, hơn 23 triệu bóng đèn compact các loại đã được tiêu thụ tại thị trường trong nước, tăng 40%/năm. So với bóng đèn tròn tiêu thụ trong nước khoảng 40trieeuj bóng/năm thì bóng đèn compact đã chiếm hơn 30% thị trường tiêu thụ. Các sản phẩm khác như máy đun nước bằng năng lượng mặt trời, một số thiết bị hàng gia dụng, các sáng kiến TKNL cho các tòa nhà, xí nghiệp, công sở… đang được triển khai nhưng còn ở dạng thí điểm, chưa phổ biến rộng trên thị trường.
Nhóm sản phẩm nhiên liệu sinh học được khuyến khích phát triển ở nước ta do nguồn nguyên liệu hết sức dồi dào. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 177/2007/QĐ-TTg ngày 20/11/2007 phê duyệt Đề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025. Theo Đề án này, phát triển nhiên liệu sinh học được chia làm 4 giai đoạn. Cụ thể đến năm 2010, xây dựng và phát triển các mô hình sản xuất thử nghiệm và sử dụng nhiên liệu sinh học quy mô 100.000 tấn xăng E5 và 50.000 tấn dầu diesel B5 mỗi năm, đáp ứng 0,4% nhu cầu xang dầu của cả nước (chỉ tiêu này là 1% đến năm 2015). Đến năm 2025, sản lượng ethanol và dầu sinh học phấn đấu đạt 1,8 triệu tấn, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu xăng dầu của cả nước. Theo dự báo về nhu cầu nhiên liệu sinh học, năm 2012 nhu cầu ethanol là 300 triệu lít, năm 2015 là 457 triệu lít và đến năm 2025 là 1 tỉ lít. Nhu cầu này sẽ mở ra một thị trường đầy tiềm năng cho xăng sinh học, đặc biệt là cho những DN đi tiên phong.
Để thực hiện đề án nêu trên, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt nam (PVN) đã đầu tư 240 triệu USD xây dựng 3 nhà máy sản xuất ethanol ở Bù Đăng, tỉnh Bình Phước (liên doanh với Tập đoàn Itochu của Nhật và Công ty Ligoci 16), Tam Nông (tỉnh Phú Thọ) và Dung Quất (Quảng Ngãi). Mỗi nhà máy có công suất 100 triệu lít/năm, sử dụng 720.000 tấn sắn lát khô và sẽ đi vào sản xuất trong năm 2011. Đến năm 2012, các nhà máy này sẽ cung cấp 240 triệu lít ethanol mỗi năm, phục vụ cho nhu cầu sản xuất xăng sinh học E5 cho thị trường cả nước. Ngoài các dự án trên, một nhà máy của công ty Đại Việt (Cư-dút, Đắc Nông) cũng đang trong quá trình vận hành thử nghiệm với công suất thiết kế là 50 triệu lít/năm.
Ngoài các loiaj sản phẩm trên, Việt nam còn có tiềm năng để phát triển các sản phẩm TKNL khác như biogas, các sản phẩm năng lượng tái sinh như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt… Tuy nhiên, các sản phẩm này chưa được phổ biến trên thị trường, hầu hết đang trong quá trình nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm.
Như vậy, Việt Nam đã có chiến lược phát triển các SPTKNL, ban hành các quy định, tiêu chuẩn đối với SPTKNL, các chính sách ưu đãi đầu tư phát triển các SPTKNL , tạo dựng cơ sở cho thị trường các SPTKNL, tuyên truyền vận động người tiêu dùng ưu tiên dùng SPTKNL…
Tuy nhiên, việc phát triển SPTKNL còn gặp một số khó khăn. Các DN sản xuất sản phẩm này chưa được ưu đãi miễn giảm thuế, một số sản phẩm chưa được khuyến khích và hỗ trợ tiêu thụ. và Chẳng hạn, mặc dù các văn bản pháp lý cho việc phát triển nhiên liệu sinh học nói chung và xăng E5 nói riêng đã được ban hành nhưng thực tế vẫn chỉ là thí điểm, chưa thực sự cho phép xăng E5 được bán bình thường đến người tiêu dùng. Nhiều loại giấy phép vẫn tồn tại đang làm khó cho việc sản xuất và tiêu thụ xăng E5. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành cũng chưa thể tạo ra một cơ chế giá hấp dẫn khuyến khích người tiêu dùng Việt Namưu tiên sử dụng xăng E5 do Việt Nam sản xuất. Công tác tuyên truyền, quảng bá về nhiên liệu sinh học và xăng E5 chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng tương tự đối với bóng đèn Led nên cả người tiêu dùng và DN chưa thực sự quan tâm do giá thành cao, khó mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, hỗ trợ từ phía Nhà nước cho hoạt động quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm còn hạn chế. Chính sách ưu đãi đầu tư cho khoa học công nghệ trong lĩnh vực TKNL vẫn còn nhiều bất cập. Một nguyên nhân khác hạn chế phát triển SPTKNL của DN là khó khăn về tài chính, nguồn nhân lực. Người tiêu dùng nước ta vẫn chưa thực sự quan tâm đến các SPTKNL do thói quen tiêu dùng và thu nhập thấp.
2.Một số giải pháp.
Để thúc đẩy phát triển thị trường các SPTKNL ở nước ta trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp ở tầm vĩ mô như sau:
Một là, có chính sách ưu đãi đầu tư phát triển sản xuất SPTKNL. Cụ thể, cần có một cơ chế ưu đãi thuế đủ mạnh để khuyến khích các DN đầu tư phát triển các SPTKNL, trước hết là đối với xăng E5 và bóng đèn Led. Về dài hạn, cần có chính sách ưu đãi về lãi suất, thuế thu nhập DN, hỗ trợ tiêu thụ đối với DN sản xuất – kinh doanh SPTKNL.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy định, tiêu chuẩn về SPTKNL; hoàn thiện hệ thống quy định cấp và dán nhãn TKNL cho các sản phẩm; hệ thống các tiêu chuẩn đối với SPTKNL.
Ba là,phát triển hệ thống phân phối các SPTKNL; khuyến khích xây dựng các trung tâm, cửa hàng mua sắm sản phẩm TKNL, hình thành mạng lưới các chuỗi cửa hàng SPTKNL, các đường phố chuyên doanh SPTKNL; đa dạng hóa các hình phân phối SPTKNL.
Bốn là, đẩy mạnh xúc tiến thương mại; hỗ trợ DN quảng bá về SPTKNL trên các phương tiện thông tin đại chúng; dành kinh phí xúc tiến thương mại thuộc chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để thường xuyên tổ chức các hội chợ triển lãm về SPTKNL; nghiên cứu thị trường về SPTKNL để xây dựng chiến lược phát triển SPTKNL; tăng cường công tác quản lý thị trường các SPTKNL…
Năm là, khuyến khích nhập khẩu SPTKNL; có chính sách ưu đãi đối với công nghệ, thiết bị, hàng tiêu dùng nhập khẩu TKNL; quản lý chặt chẽ công nghệ, sản phẩm nhập khẩu tiêu hao nhiều năng lượng.
Sáu là, khuyến khích tiêu dùng SPTKNL; khuyến khích các cơ quan nhà nước thực hiện mua sắm công các SPTKNL; tuyên truyền cho người tiêu dùng về lợi ích của SPTKNL; phát động các phong trào về tiêu dùng SPTKNL./.
Tài liệu tham khảo:
1.Thủ tướng Chính phủ, 2006, Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg ngày 14-4-2006 về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn từ nay đến năm 2010.
2 . Đưa xăng sinh học ra thị trường. http://daukhi.vietnamnet. Vn/vn/tin-moi/1860/ dua-xang-sinh-hoc-ra-thi-trương.html.
3. Những cáchTKNL, http://www.khon-glocupdien.com/tu-van/55-mhung-cach-tiet-kiem-nang-luong-don-gian-phan-1. html.
4. Viện nghiên cứu thương mại – Bộ Công Thương: Điều tra, đánh giá về đề suất giải pháp thương mại hóa các sản phẩm than thiện môi trường Việt Nam .








