Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 27/02/2012 21:47 (GMT+7)

Một số đề xuất đưa vào nội dung Luật về quản lý bờ biển nước ta

Những khó khăn, bất cập

Về môi trường, nhiều vấn đề đang ngày càng nổi cộm, như tỉ lệ tăng dân số tại vùng ven biển rất cao; suy giảm các tài nguyên sinh học, trong đó có nguồn lợi thủy sản; suy thoái các hệ sinh thái quan trọng; suy thoái đất canh tác ven biển do nhiễm mặn hoặc phèn hóa, do mất thảm thực vật… Đặc biệt, những năm gần đây thời tiết khí hậu diễn biến phức tạp, các cơn bão đổ bộ trực tiếp vào nước ta ngày càng nhiều và có cường độ lớn hơn; sự cố dầu tràn vào bờ biển các tỉnh miền Trung và miền Nam trên diện rộng; tai nạn đường biển gia tăng theo thời gian.

Về xã hội, sự gia tăng dân số tại vùng ven biển cao hơn so với cả nước cũng là một áp lực lớn lên vùng ven biển. Công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí, vai trò của biển chưa đầy đủ, nên chưa tích cực tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ liên quan đến biển. Thiếu nhận thức và hiểu biết các vấn đề, các nội dung liên quan đến quản lý và sử dụng các tài nguyên biển, dẫn đến nhiều hoạt động khai thác biển được triển khai, đe dọa đến tính bền vững của vùng biển.

Về kỹ thuật, nước ta đang thiếu kiến thức và kỹ năng trong đánh giá các quá trình động lực học biển, tác động của các hoạt động xây dựng ở vùng biển, đánh giá tác động môi trường, lập kế hoạch và triển khai các hoạt động nâng cao nhận thức. Thông tin phục vụ quản lý vùng biển còn thiếu, đặc biệt các thông tin, dữ liệu về các tài nguyên sinh học, chỉ thị môi trường và các thông tin viễn thám từ các ảnh vệ tinh chi tiết.

Chính sách, pháp luật về biển chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực chuyên ngành còn mang tính phân tán, chồng chéo lẫn nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng. Chưa có một văn bản quy phạm pháp luật tổng thể với tính chất là một đạo luật, có vai trò như là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển, quy định và điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các nội dung quản lý nhà nước về biển; việc xác định rõ phạm vi, chế độ pháp lý của từng vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; vấn đề bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển; bảo vệ quốc phòng an ninh, an toàn và trật tự trên biển khai thác tài nguyên và bảo vệ môi trường biển… dẫn đến thực thi pháp luật về biển còn gặp khó khăn. Nhiều quy định còn mang tính áp đặt hành chính, thiếu các quy định dựa trên nền tảng kỹ thuật.

Mô hình quản lý nhà nước theo ngành có hạn chế bởi sự quản lý chuyên sâu vào từng ngành cụ thể để có tối đa các ưu đãi, ưu thế, lợi ích cho riêng ngành mình, vì thế thiếu sự hợp tác, lồng ghép có hiệu quả trong việc thực hiện chức năng quản lý; hơn nữa cách quản lý theo ngành này bộc lộ sự bất cập là chồng chéo về trách nhiệm, dẫn đến tình trạng “biển mở cho tất cả” gây tác động xấu cho bảo đảm phát triển bền vững. Bộ máy quản lý biển được tổ chức không thống nhất ở phần hạ tầng. Phân cấp về tài chính và năng lực quản lý yếu ở cấp địa phương khác nhau nên thường quản lý không thống nhất, chồng chéo về trách nhiệm và lãng phí về đầu tư tài chính, thiết bị. Trên một vùng biển có nhiều lực lượng cùng thực hiện một nhiệm vụ. Một số cơ quan, ban ngành có mâu thuẫn về quyền lợi trong khai thác và sử dụng TN&MT biển. Các mâu thuẫn nảy sinh ngay từ giai đoạn lập kế hoạch, thể hiện sự thiếu liên kết và hài hòa giữa các quyền lợi trước mắt và lâu dài và giữa các ngành và địa phương. Trong khi đó, khung luật pháp và việc thi hành pháp luật không có điều khoản để kiểm soát và giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp nêu trên. Mô hình tổ chức quản lý theo lãnh thổ của địa phương có mặt hạn chế: Các địa phương được giao quyền tập trung vào phạm vi đất liền là các huyện ven biển, hơn nữa các địa phương chưa được giới thiệu và áp dụng phương thức quản lý tổng hợp đới bờ. Vì vậy gặp nhiều khó khăn trong hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển biển tổng hợp và hạn chế trong phối hợp hoạt động của các ngành trong địa bàn của cùng địa phương và với các địa phương khác; thiếu hiểu biết về quản lý đới bờ, nhất là ở huyện, xã. Thiếu năng lực về thanh tra, kiểm soát và cưỡng chế xử lý vi phạm. Việc phê duyệt kế hoạch, các vấn đề liên quan đến quản lý TN&MT vùng biển chưa được xem xét một cách công bằng và minh bạch giữa các ngành, dẫn đến những hạn chế trong việc triển khai các kế hoạch phát triển vùng biển.

Một số đề xuất

Kinh nghiệm quản lý đê biển ở nhiều vùng bờ biển trong nước và trên thế giới cho thấy, các nội dung cần xem xét đưa vào Luật TN &MT biển được đề xuất như sau:

Quản lý vùng đệm ven biển: “Nghiêm cấm các hoạt động đầu tư mới như xây dựng cầu cống, đường sá, nhà cửa, cột điện, các công trình kiến trúc khác cho việc phát triển kinh tế, xã hội và đời sống dân sinh trong khu bờ là vùng đệm ven biển”; “Nghiêm cấm mọi hành vi của tổ chức và cá nhân ngăn chia để chiếm dụng vùng đệm như bãi biển, cát, bãi triều lầy… phục vụ mục đích riêng, trong đó bao gồm cả việc kinh doanh, tư lợi”.

Ổn định bờ biển tại vùng đệm bị xói lở: “Nhà nước ưu tiên hỗ trợ và khuyến khích đầu tư việc áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến “công nghệ mềm” và các biện pháp “phi công trình và thân thiện với môi trường”; “Nghiêm cấm hoạt động biến đổi bãi biển tự nhiên sang mục đích sử dụng làm sân tennis, các vuông nuôi thủy sản, đường ven biển tại các bãi biển đang bị xói lở hoặc có nguy cơ xói lở”; “Cần mở rộng vùng bảo vệ cửa đê biển thành một dải rộng, có lõi là đê biển, có vùng đệm của đê; từng bước bồi đắp cát trong đê để tạo đụn, nuôi bãi ngoài đê và có các biện pháp phủ xanh vùng đệm của đê bằng trồng cây, tạo dải thực vật phòng hộ”.

Quản lý vùng đệm ở vùng bờ biển bồi tích: “Không quy hoạch, bố trí dân cư, không quai đê lấn biển và cấp phép xây dựng đối với các công trình kiến trúc và hạ tầng cơ sở, nhà cửa, đường sá giao thông… ở vùng đất ven biển nơi có nền địa chất và địa mạo chưa ổn định”.

Quản lý các khu bảo tồn ở vùng đệm ven biển, đảo:“Nhà nước thống nhất áp dụng quy chế quản lý đối với các khu bảo tồn thiên nhiên ven biển (gọi tắt là khu bảo tồn (KBT) trong vùng đệm ven biển. Khai thác nguồn lợi tư nhiên ở các KBT chỉ được tiến hành ở các vùng của KBT trong cơ chế đồng quản lý của Ban quản lý KBT, chính quyền địa phương và cộng đồng địa phương”.

Bảo đảm an toàn và sự tồn tại lâu dài của các công trình kiến trúc, giao thông ven biển:“Khoảng cách được phép xây dựng của các công trình ven biển đến mép trong vùng đệm, tùy thuộc vào quy mô và loại hình kiến trúc. Nhà nước có trách nhiệm ban hành các quy định về khoảng cách này áp dụng cho các đối tượng kiến trúc và giao thông khác nhau; các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực tư vấn quy hoạch; UBND các địa phương giáp biển sẽ dựa váo các quy định về khoảng cách này để quy hoạch và cấp phép xây dựng tại vùng đất ven biển, giáp vùng đệm”.

Khai thác sử dụng bờ biển cho các mục đích khác nhau, thân thiện với môi trường:“Người dân địa phương được phép khai thác thủy sản tự nhiên trong vùng đệm bờ biển bằng các biện pháp khai thác truyền thống và thân thiện môi trường, khai thác theo mùa vụ của từng loài và tuân thủ các quy định của ngành Thủy sản”; “Khuyến khích hoạt động dịch vụ du lịch phi công trình nhằm thụ hưởng sinh thái và cảnh quan ven biển, như hoạt động du lịch thăm quan cảnh quan, cắm trại và tắm biển”.

Nghiên cứu, xác định bờ biển theo vùng miền, xác định vùng đệm; xây dựng tiêu chuẩn và các biện pháp quản lý:“Bộ TN&MT chủ trì nghiên cứu và ban hành chỉ tiêu để xác định ranh giới trong của hành lang vùng đệm bờ biển, áp dụng cho tỉnh ven biển thuộc các vùng miền có điều kiện địa lý và địa mạo khác nhau”; “Bộ TN&MT phối hợp với các bộ như Xây dựng, GTVT, NN&PTNT, nghiên cứu ban hành các quy định về khoảng cách đến ranh giới trong của vùng đệm ven biển, áp dụng cho việc quy hoạch và cấp phép xây dựng cho các công trình kinh tế, xã hội và dân sinh ven biển”.

Quản lý tỉnh, liên tỉnh và liên ngành: “Các tỉnh ven biển tổ chức xây dựng kế hoạch quản lý đường bờ của tỉnh trong khuôn khổ Quản lý tổng hợp đới bờ của tỉnh. Quản lý bờ biển cần được coi như một đối tượng ưu tiên trong chương trình Quản lý tổng hợp của tỉnh”; “Các tỉnh liền kề có cùng giải ven biển nơi mà đường bờ, tuyến đê của họ bị xói lở, xâm thực hoặc có chung hệ sinh thái có giá trị đặc biệt được quy hoạch làm KBT (Vườn quốc gia hay khu dự trữ sinh quyển) cần xây dựng quy hoạch vùng để đồng quản lý. Ủy ban liên tỉnh về quản lý bờ biển, tuyến đê hay KBT cần được thành lập với sự tham gia của Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT. Chính phủ cân đối ngân sách hỗ trợ cho việc thực hiện quy hoạch vùng giữa các tỉnh”.

Vai trò của Chính phủ: “Chính phủ (Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính) có trách nhiệm cân đối ngân sách, hỗ trợ các địa phương và vùng ven biển thực hiện các kế hoạch quản lý bờ biển của tỉnh và của vùng”; “Chính phủ (Bộ TN&MT) có trách nhiệm tổ chức hướng dẫn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quản lý bờ biển ở các địa phương ven biển”; “Chính phủ (Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT) hỗ trợ các địa phương tổ chức tập huấn, tăng cường năng lực và nhận thức cộng đồng về quản lý bờ biển”.

Vai trò của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp:“Tham gia đào tạo, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng từ nguồn tài trợ quốc tế của các tổ chức quốc tế”; “Xây dựng các mô hình sinh kế bền vững trong vùng bờ: Khai thác khôn khéo tài nguyên thủy sản tự nhiên, nuôi ong, du lịch sinh thái: Lữ hành, cắm trại kết hợp với văn hóa”; “Tham gia các dự án ODA của các cơ quan Chính phủ chủ trì với vai trò là đối tác, tổ chức cung cấp dịch vụ kỹ thuật”.

Hợp tác quốc tế và khu vực: “Học tập, trao đổi kinh nghiệm và chuyên gia trong xây dựng văn bản pháp quy dưới luật: hướng dẫn, quy phạm kỹ thuật”; “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý và chuyên môn ở các cấp, trung ương và tỉnh”; “Phối hợp tổ chức thực hiện các dự án vay ODA ưu đãi nhằm chuyển giao, ứng dụng công nghệ tiên tiến về chống xói lở, ổn định đường bờ quan trọng cũng như xây dựng chính sách và đào tạo./.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.