Một nhân cách trí thức
Gần đây, trong sự cởi mở của thời cuộc xua bớt đi lớp sương mờ ảo và u ám của những định kiến, người ta đã bắt đầu nói nhiều hơn về những vị tướng xuất thân là trí thức, chứ không chỉ những người từ bần cố, từ thợ thuyền mà trưởng thành lên, cho dù họ có tài thao lược đến đâu và sự cống hiến của họ cho Tổ quốc, vai trò của họ trong quân ngũ đáng trân trọng thế nào. Đương nhiên, không có đội quân công nông ấy, không có sự dũng cảm và hy sinh vô bờ bến của người nông dân, không thể có ngày hôm nay và hiển nhiên cũng không có sự cống hiến, tài thao lược của những người chỉ huy xuất thân là trí thức kia.
Là chủ lực quân của cách mạng, người nông dân kế tiếp truyền thống bao đời dựng nước và giữ nước trong suốt chiều dài lịch sử, luôn là người gánh trên vai mình gánh nặng nhất. Và lịch sử đã chứng minh, ai khởi động được ý chí và quy tụ được sức mạnh nông dân dưới ngọn cờ cứu nước của mình, người ấy sẽ lập nên sự nghiệp, sử sách ghi tên họ.
Chỉ có điều, nếu chỉ thấy nông dân mà không thấy người tập hợp và chỉ huy họ, thấy lính mà không thấy tướng, là tự lấy tay che mắt mình. Nếu tỉnh táo mà nhìn, thì lớp cán bộ quân sự cao cấp giữ vai trò nòng cốt trong đội quân công nông của Đảng, phần lớn xuất thân từ trí thức, kể từ ngày thành lập với người anh cả của quân đội, vị lão tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. May mắn thay, màu xám định kiến sai lầm, hệ lụy của một thời đang được cuộc sống dần dần hàn gắn lại. Có lẽ người ta đã hiểu ra phần nào lời cảnh báo của Mác-xim Goóc-ki từng đưa ra từ những năm 1917-1918, năm của Cách mạng Tháng Mười Nga: “ Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần...”.Và vì thế, nhà đại văn hào Xô viết ấy đã quyết liệt mà rằng: “ Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”.
Tôi muốn mượn lời Gorky để nói về thân phận của người trí thức, một sản phẩm của văn hoá, không chỉ ở nước Nga. Trực tiếp hơn, từ lời cảnh báo ấy của Gorky để suy ngẫm, và nói lên đôi lời về vị tướng xuất thân là trí thức Cao Văn Khánh qua lăng kính của kiểu tư duy “mao ít” được xem là “thành phần khá phức tạp”. Xin dẫn ra đây một đôi dòng nói về một số tướng lĩnh Việt Nam trong “Đọc Hồi ký của những người trong cuộc” của Trần Giao Thuỷ: “…có một số, ít hơn, là ngoại lệ thuộc “thành phần khá phức tạp”. Thí dụ, Trung đoàn trưởng 174 Đặng Văn Việt, con quan của triều đình nhà Nguyễn, Đại đoàn phó đại đoàn 308 Cao Văn Khánh tốt nghiệp cử nhân Luật và đi dạy học, hay Trung đoàn phó rồi Trung đoàn trưởng các Trung đoàn: Sơn La, Sơn Tây, quyền Khu trưởng Khu XIV, khu phó Liên khu X Lê Trọng Tấn, con cụ đồ, học trò trường Bưởi, đá bóng và đi lính cho Pháp (hạ sĩ lính khố đỏ)…”. Khúc xạ qua lăng kính “mao ít” ấy, những người thuộc “thành phần khá phức tạp” mà các vị “cố vấn” chỉ đích danh đương nhiên không tránh khỏi những khó khăn. Nghe nói, có lần ai đó đưa trình Bác Hồ một danh sách do các cố vấn Trung Quốc đưa ra, về những cán bộ quân đội ta xuất thân từ trí thức cần loại bỏ khỏi đội ngũ quân công nông của Đảng. Và Bác Hồ đã xé đi: “Nếu thế này thì còn gì quân đội”.
Nếu câu chuyện kia là có thật thì e rằng Cao Văn Khánh chắc không nằm ngoài danh sách đen ấy. Và nếu làm theo các ông “cố vấn” trong ý đồ của họ, thì không biết tình hình sẽ đi đến đâu. Mà nếu thế thì chắc chắn đã không có “một con người hăng hái, trung thực có nhiều kinh nghiệm chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng, được cán bộ tin yêu” như lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sẽ không có “người trí thức yêu nước sớm được giao những trọng trách ở cương vị chiến lược, người huấn luyện quân đội tiến lên chính quy hiện đại, vị tư lệnh ở đầu sóng ngọn gió, vị tướng tham mưu chiến lược” như lời của Trung tướng Hồng Cư viết, càng không thể có “một tướng lĩnh Việt Nam văn võ song toàn” như lời của đại tá Xuân, người bí thư riêng của Cao Văn Khánh viết về anh.
Đúng “không ai đoán trước được”. Vả chăng, cũng chẳng cần đoán làm gì. Với một nhân cách trí thức đích thực, thì đáp lại tiếng gọi của non sông khi “sơn hà nguy biến”, dấn thân cứu nước là chuyện tự nhiên như tự nhiên phải như vậy. Chỉ có điều, yêu nước và cứu nước không chỉ duy nhất một lối, và phải chỉ một lối quy định, thì mới là yêu nước. Miễn là có một định hướng cho lẽ sống ở đời, mà cao cả nhất, cũng giản dị nhất là sự hướng thiện, là sự vươn tới những giá trị có tính phổ quát là chân, thiện, mỹ. Còn làm thế nào, thì đó là tuỳ ý thức của mỗi người. Con người khác con cừu, như Mác nói, vì con người có ý thức. Không biết sử dụng sự khác biệt căn bản đó, mà nhất nhất phải theo cái gậy chỉ huy, thì con người khác gì con cứu. Nhưng oái ăm thay, người có cái gậy quyền lực thì cứ muốn mọi người đều là cừu. Vậy mà, “cái gậy” duy nhất khiến con người e sợ lại là lương tâmcủa chính mình.
Đương nhiên, lương tâm, một thuộc tính con người, không tự trên trời rơi xuống mà một phần được nuôi dướng với tính người, một phần lớn là sự tự rèn luyện. Vậy mà đã có một cuốn sách “Đạo đức học” viết hẳn một chương: “lương tâm người cộng sản với lương tâm tên tư bản”. Sự đánh tráo khái niệm và lẫn lộn phạm trù ấy rất phổ biến trong sách giáo khoa và trong sự rao giảng những tín điều học thuộc lòng của một thời: “chỉ có giai cấp tính, không làm gì có nhân tính”, đã dung dưỡng một cách nhìn nhận phẩm tính làm người rất méo mó, thiên lệch và dung tục, dẫn đến những ứng xử, những chủ trương đường lối sai lầm rất đáng tiếc. Chuyện nhìn nhận về những cán bộ xuất thân trí thức nói trên cũng là sự khúc xạ qua cái lăng kính “giai cấp tính” – “nhân tính” ấu trĩ đó.
Rồi cũng được khúc xạ từ lăng kính méo mó ấy, đã một thời, chúng ta quen với cách lý giải và lập luận rằng, làm người cộng sản là vẻ vang nhất, oai hùng nhất và dường như chỉ người cộng sản mới là người đẹp nhất, tuyệt vời nhất. Có chuyện đó. Khi mà phong trào Cần vương rồi các cuộc vận động cứu nước dưới nhiều hệ ý thức do những người yêu nước khởi xướng đều bị thất bại, thì đi theo ngọn cờ của Đảng Cộng sản là một tất yếu lịch sử, vì đó là đòi hỏi của cuộc sống. Nhưng không vì thế mà không thấy rõ những tấm gương hy sinh dũng cảm và giàu sức vẫy gọi khác của những người yêu nước không phải là cộng sản.
Dẫn ra hơi dài những lập luận trên chỉ để nhằm làm sống lại bối cảnh mà người thanh niên, hướng đạo sinh Cao Văn Khánh chọn con đường của mình. Hữu Ngọc đã kể về Cao Văn Khánh: “ Trước 1945, mình không tham gia chính trị vì còn phải ở lại Huế săn sóc mẹ già. Đảng thành công, mình chưa muốn vào vì chưa có đóng góp gì... Mình chỉ muốn là người công dân tốt. Tổ quốc cần, đi đánh giặc. Xong, lại về dạy học”. Chúng tôi biết, có người cùng thế hệ “xếp bút nghiên” với Cao Văn Khánh đã nhận xét anh cư xử như vậy là “chậm”, ý nói “chậm giác ngộ” để nhanh chóng xin vào Đảng khi đã gánh vác trọng trách của quân đội. Một cách nghĩ khác: Đây lại là biểu hiện rất điển hình của một phẩm tính trí thức: Lòng tự trọng.
Theo chị chúng tôi kể thì đã có lần anh tâm sự: “ Nếu vào Đảng thì đã vào từ dạo anh Đào Duy Kỳ đưa tài liệu về Đảng và muốn mình tham gia những năm 34, 35. Nhưng lúc ấy mình chưa thấy thật rõ lý do phải vào Đảng, khi mình đang là một trí thức tự do, yêu nước và hoạt động theo cách của mình mà tự mình thấy là đúng đắn như công việc dạy học của mình lúc đó, hơn nữa chưa thể bay nhảy vì còn phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ”. Có thể, từ một cách nhìn nào đó, thái độ ấy bị phê phán. Sự phê phán ấy, không phải là không có lý nếu từ một cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc. Thế nhưng, đừng quên rằng, trong hoạt động “Thanh niên tiền tuyến” ở Huế, Cao Văn Khánh lại thuộc về những người “nam tiến” đầu tiên, người thầy giáo ấy dấn thân vào lửa đạn của cuộc chiến đấu, rồi từ đó luôn có mặt ở những chiến trường ác liệt nhất khi chưa phải là đảng viên cũng như khi đã gia nhập Đảng.
Ai đó đã nói rất hay về phẩm tính trí thức “phải là con người có sự đoan chính về nhận thức... chỉ những con người tự do trong đức tin của mình, những con người không bị lệ thuộc bởi các ràng buộc kinh tế, đảng phái, quyền chính, không phải tuân phục các khế ước tư tưởng, mới thuộc về giới trí thức... Nguyên tắc cơ bản của phẩm tính trí thức là tự do trí tuệ – tự do trong tư cách một phạm trù đạo đức. Con người trí thức chỉ không tự do với lương tâm và với tư duy của mình”.
Phải chăng sự “đoan chính về nhận thức” và “chỉ không tự do với lương tâm” của Cao Văn Khánh lúc ấy chính là bổn phận của người con đối với mẹ già, là giữ chữ hiếu? Có lẽ chàng thanh niên trí thức ấy không quá câu nệ như Từ Thứ, một nhân vật trong truyện “Tam Quốc”, phải “quy Tào” vì vướng bận mẹ già, không theo về được với Khổng Minh để phò minh chúa. Nhưng đúng là bổn phận của người con phải giữ tròn chữ hiếu đã khiến người trí thức Cao Văn Khánh chọn việc dạy học ở một trường tư thục tại Huế. Nhưng chắc chắn rằng, trong phẩm tính “đoan chính về nhận thức” của người trí thức ấy, “chữ hiếu” chiếm lĩnh một góc sâu thẳm trong đời sống tinh thần của anh. Những ứng xử của anh đối với gia đình mà chúng tôi được chứng kiến sau này, cho thấy rõ điều đó. Chị của chúng tôi từng tâm sự, tình cảm của anh dành cho mẹ chúng tôi, sự ân cần, chu đáo và tế nhị của anh mỗi khi từ chiến trường về hay trong thư gửi cho chị, bao giờ cũng có những dòng đằm thắm về mẹ chúng tôi đã làm bền chặt thêm tình yêu của chị dành cho anh. Cũng vì thế, tình thương yêu của mẹ chúng tôi đối với anh cũng là một nguồn động viên không nhỏ trong anh.
Phẩm tính trí thức, bản lĩnh, tầm vóc và sự nghiệp của vị tướng được khẳng định trong một con người: Cao Văn Khánh. Được vậy, chính là do anh đã tạo dựng được nhân cách của mình trên cái nền tảng nhân bản đó, trên cái bề dày văn hóa đó. Không có cái nền nhân bản ấy, không tự định hình và phát triển phẩm chất và tài năng của mình trên mảnh đất văn hóa cơ bản ấy, không thể có một nhân cách, một sự nghiệp Cao Văn Khánh.
Trong bối cảnh của sự suy thoái đạo lý xã hội, sự thoái hóa biến chất của không ít những người cầm quyền, kể cả những người ở cương vị mà “ Trăm con mắt đều nhìn vào, trăm ngón tay đều chỉ vào” như lời cảnh báo của Phạm Văn Đồng cách đây 10 năm, đang ngày càng làm vẩn đục môi trường xã hội, thì việc quay trở lại cái chiều sâu nhân bản của một nền tảng văn hóa trong sự định hình nhân cách và phẩm tính làm người của Cao Văn Khánh là điều cần phải được nhìn nhận một cách nghiêm túc. Hình ảnh sống động của một con người như Cao Văn Khánh, nếu được suy nghĩ kỹ, phân tích kỹ, được nhìn nhận một cách nghiêm cẩn và giàu thiện ý, thì trong chiều cạnh nào đó, có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ở đây không là tụng ca một con người, ở đây là bàn về cái gốc nhân bản, cái nền văn hóa đã định hình một nhân cách, nhân tố quyết định của tài năng và sự nghiệp rất cần cho việc định hướng phát triển của thế hệ trẻ hôm nay.
Để tránh những lập luận khô khan và tư biện, xin dẫn ra đây vài câu chuyện rất cụ thể, có khi là nhỏ nhặt. Lê Văn Khánh, vốn là học trò của thầy dạy toán Cao Văn Khánh hồi học ở Huế, kể lại rằng: “...có lần trong bài kiểm tra viết về toán, tôi chỉ ghi hai chữ Lưu Khánh vào bài khi tên tôi là Lê Văn Khánh. Khi trả bài, thầy gạch đỏ chữ Lưu và phê: “Pas serieux – 1 point” [không nghiêm túc, trừ 1 điểm]. Đã có lần thầy nhẹ nhàng khuyên tôi “Hãy cố gắng luyện văn”, thầy dạy toán lại nhắc nhở trò học văn... Khi tôi làm chủ nhiệm Công binh ở chiến dịch Đường 9-Nam Lào và chiến dịch Trị Thiên, thỉnh thoảng anh Cao trực tiếp gọi tôi lên báo cáo về tình hình đảm bảo công trình và lần nào cũng vậy, anh Cao ít khi hỏi đến những công việc đang triển khai bảo đảm cho ý đồ của chiến dịch. Những việc đó thường là do đồng chí tham mưu trưởng đã trực tiếp làm việc với các binh chủng rồi. Anh Cao thường hỏi những vấn đề sẽ phát triển của chiến dịch, những công việc của các bước tiếp theo. Có những việc tôi chưa kịp nghĩ đến, nhiều phen toát mồ hôi với sự cạn nghĩ của mình. Nhờ đó, chúng tôi tích lũy thêm được kinh nghiệm trong đời binh nghiệp của mình…”.
Sự nhất quán trong tính cách thấm đẫm “đức nhân”, “nhân chi pháp tại ái nhân, nghĩa chi pháp tại chính kỷ” (phép tắc của nhân là yêu người, phép tắc của nghĩa là chính mình) phải thể hiện ra trong những ứng xử nhỏ nhặt nhất. Từ chuyện nhỏ nhặt ấy, cho đến chuyện lớn như chuyện mà chúng tôi, với khí lượng hẹp hòi tầm nhìn hạn chế vẫn thường nghĩ đến và đã từng suy tư, ấy là chuyện suốt một thời gian rất dài, chúng tôi không hề đọc được, chưa hề nghe được những bài viết, bài nói nào về Cao Văn Khánh, có chăng chỉ một vài câu thoáng qua trong hồi ký hay đôi dòng phóng sự chiến trường của một ai đó. Đấy là chúng tôi, chứ anh, người trí thức, vị tướng Cao Văn Khánh, không một chút băn khoăn.
Với anh, chuyện người ta phải thường xuyên nói đến và đề cao các chính uỷ bên cạnh anh, hoặc phải biểu dương ca ngợi những cán bộ dưới quyền anh vốn xuất thân bần cố, “ rũ bùn, đứng dậy, sáng loà” là chuyện đương nhiên phải thể. Chính anh đã từng nói về sự hy sinh tuyệt vời dũng cảm của những người nông dân mặc áo lính trong những trận đánh đầu tiên do anh chỉ huy, Đại Bục, Đại Phác đã từng làm xúc động và để lại trong anh ấn tượng sâu đậm về họ. Cho nên, những chuyện “tuyên truyền chính trị”, một người trí thức như anh không bận tâm, cần dành thời gian và trí óc cho công việc để “hoàn thành nhiệm vụ” của một người chỉ huy quân sự với những trọng trách trên vai, cũng như “chỉ muốn là người công dân tốt” thời còn đi dạy học ở Huế, như lời tâm sự với Hữu Ngọc.
Cùng vì thế, dám đoán chắc rằng, nếu như Cao Văn Khánh biết được [một chữ “nếu” lạc lõng] khi anh mất đi, người ta còn băn khoăn về chỗ đặt anh tại nghĩa trang Mai Dịch, để vị tướng chiến trường đã ba mươi năm xông pha chiến trận, từng là vị tư lệnh nơi chiến trường ác liệt nhất, nơi chất độc da cam trút xuống nhiều nhất, khiến anh có thể an giấc ngàn thu, thì chắc anh cũng xua tay nhỏ nhẹ “chuyện vặt, bày trò làm gì”.
Có lẽ vì thế mà giờ đây, đứng trước mộ anh đang lộng gió trên ngọn đồi ở Bất Bạt, Yên Kỳ của một vùng trung du mà anh đã từng chỉ huy những trận đánh đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp, chúng tôi sung sướng vì chị Toản đã không chút do dự khi quyết định đưa anh Khánh thân yêu của chúng tôi lên đây. Ngay cả khi tổ chức đã nhiều lần đề nghị gia đình đồng ý để người ta đưa lại anh về nơi “đúng tiêu chuẩn” của một Phó Tổng Tham mưu trưởng, thì chị Toản cũng đã tế nhị từ chối với cái cớ khó bác bỏ và cũng không xúc phạm đến ai, là “ phong tục Huế không làm như thế nên mẹ chúng tôi không đồng ý”. Thế là vui vẻ cả. Quả thật “ chuyuện buồn đổ cả xuống sông, chuyện vui giữ lấy trong lòng mà vui”. (Việt Phương)
Sinh ra từ đất, khi trở về với đất, con người bình dị và cao đẹp ấy có thể thanh thoát nơi chốn vĩnh hằng vì đã sống trọn vẹn một kiếp người với sự trọn vẹn của một nhân cách trí thức đích thực.








