Một dân tộc có sức sống kỳ diệu
Tháng 11 năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua quyết định chia mảnh đất Palestine do Anh uỷ trị ra làm một nước của người A Rập và một nước của người Do Thái (Israen). Ngay sau khi Anh rút quân ra khỏi Palestine, ngày 14 tháng 8 năm 1948, nước Israen ra đời. Dân tộc Do Thái từng có nền văn minh cổ đại rực rỡ và sức sống mãnh liệt, hiện nay đang xây dựng đất nước họ thành một quốc gia phát triển cao về mọi mặt, GDP đầu người năm 2003 đạt mức 19.000 USD.
Năm 1028 trước CN, người Do Thái ngày xưa gọi là Hebrew, sau nhiều thế kỷ sống du mục đã định cư trên mảnh đất Canaan (sau này gọi là Palestine), nơi tiếp giáp 3 châu Âu, Á, Phi, gần các nền văn minh Ai Cập, Assour, Hy Lạp, La Mã, v.v… Họ lập nên một vương quốc từng phát triển phồn vinh dưới thời của các triều vua David và Solomon. Năm 586 trước CN, vương quốc nhỏ bé ấy bị Babylon xâm chiếm, toàn bộ người Do Thái tầng lớp trên bị bắt đưa về Babylon làm nô lệ. Trong thời gian lưu đày ở Babylon, đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt, tầng lớp trí thức Do Thái đã dùng văn tự của họ biên soạn nên cuốn Kinh điển Hebrew nổi tiếng và phổ biến, lưu truyền trong dân tộc mình. Sách này ghi lại lịch sử người Do Thái, nội dung vô cùng phong phú và giàu triết lý có giá trị thẩm mỹ văn học rất cao, về sau được đưa vào trong Kinh Thánh của đạo Ki Tô, gọi là Cựu ước (Giao ước cũ). Cựu ước đề xướng quan điểm người Do Thái là một dân tộc được Thượng đế Jehovah lựa chọn gửi niềm tin; Thượng đế và họ từng giao ước với nhau: người Do Thái chỉ thờ duy nhất một Thượng đế, Jehovah, còn Jehovah sẽ ưu ái giúp người Do Thái thưc hiện nguyện vọng xây dựng lại tổ quốc mình. Cuốn sách Kinh điển này đã tạo cho người Do Thái niềm tin vững chắc vào tương lai của họ. Năm 536 trước CN do Babylon bị Ba Tư đánh bại nên người Do Thái được trở về quê cũ Canaan một thời gian. Nhưng về sau nước này lại bị Hy Lạp rồi La Mã chiếm đóng. Từ năm 135, sau khi cuộc khởi nghĩa cuối cùng chống lại ách đô hộ của đế chế La Mã bị thất bại, dân tộc Do Thái bắt đầu sống phiêu bạt từng nhóm nhỏ trên khắp thế giới. Tuy vậy, nhờ có niềm tin vững chắc vào Thượng đế tối cao cùng giao ước giữa Thượng đế với người Do Thái, và niềm tự hào là “dân tộc được Thượng đế ưu ái”, sau mấy nghìn năm lưu vong, họ vẫn đoàn kết chặt chẽ, gìn giữ được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, tôn giáo và nền văn hoá mà không bị đồng hoá.
Không những chỉ sống lưu vong mà người Do Thái đi đâu cũng bị hắt hủi. Khoảng đầu CN, một người Do Thái là Jesus lập nên đạo Ki Tô, tuyên truyền tư tưởng thế giới đại đồng vượt ra ngoài phạm vi hẹp của đạo Do Thái. Đạo Ki Tô tuy thừa nhận toàn bộ Kinh điển Hebrew nhưng lại có mâu thuẫn với đạo Do Thái. Để tách khỏi sự ràng buộc của Cựu ước, các nhà Ki Tô giáo biên soạn thêm “Tân ước”. Tuy cả hai giao ước này đều nằm trong Kinh thánh của đạo Ki Tô, nhưng Tân ước đưa ra truyền thuyết một người Do Thái là Judah nguyên học trò của Jesus chỉ vì tham 30 đồng bạc mà bán thầy mình cho quan Tổng trấn La Mã, khiến chúa Jesus bị hành hình. Từ đó trở đi, tập thể người Do Thái bị mang tiếng xấu muôn thuở là bán Chúa! Sau khi ra đời khoảng 400 năm, đạo Ki Tô được đế chế La Mã thừa nhận là quốc giáo, mâu thuẫn giữa hai tôn giáo trên ngày càng gay gắt. Suốt thời kỳ Trung Thế kỷ, hình ảnh người Do Thái bị bôi nhọ là những kẻ tóc đỏ áo vàng, tức loài quỷ dữ. Trong thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc phát triển cao, người Do Thái còn bị gắn thêm hình ảnh mũi khoằm diều hâu, mắt tam giác, chân tay co quắp.
Thực ra, sự thù ghét hắt hủi người Do Thái còn có nguyên nhân kinh tế sâu xa. Các nhà sử học đã khảo sát tình trạng xua đuổi hoặc tàn sát tập thể người Do Thái ở nhiều nơi trên thế giới, họ thấy các vụ này đều xảy ra trong thời kỳ kinh tế các nơi ấy sa sút, dân chúng nợ nần nhiều, mà chủ nợ phần lớn là người Do Thái. Người ta chọn cách xoá nợ đơn giản nhất là đồng lòng xua đuổi hoặc tàn sát người Do Thái với lý do họ cho vay nặng lãi. Ai đã đọc truyện Ai-van-hô của W.Scot đều biết ông bố của nàng Rê-bec-ca xinh đẹp thánh thiện là một người Do Thái lắm tiền mà địa vị thấp hèn, đi đâu cũng bị người Anh khinh ghét, soi mói túi tiền của ông.
Người Do Thái giàu có, một phần là do hoàn cảnh lịch sử, một phần là do họ thông minh, khôn ngoan. Hàng nghìn năm sống phiêu bạt, không có đất đai canh tác, không được làm các nghề thủ công, để sinh sống, họ chỉ có thể hành nghề buôn bán và tài chính. Đây là hai nghề kiếm ra tiền, chính vì thế họ hay bị dân chúng địa phương, trước hết là tầng lớp quý tộc ghen ghét. Ngay từ thế kỷ XVIII trước CN, bộ lạc Do Thái do Jacob đứng đầu lánh nạn sang Ai Cập 400 năm, do làm ăn tài giỏi trở nên giàu có, cuối cùng bị người địa phương ghen ghét, các Pharaoh Ai Cập đều tìm cách hãm hại nô dịch họ, khiến họ phải bí mật kéo cả bộ lạc trốn khỏi nước này. Giáo hội Ki Tô giáo thời trước cũng bài xích người Do Thái. Định kiến hẹp hòi đối với người Do Thái khá phổ biến trên thế giới, khoảng 1/3 người châu Âu có thái độ phân biệt đối xử với người Do Thái sống lưu vong trên đất nước họ. “Tuyên bố Chính trị” của trùm phát xít Hitler viết trước khi hắn tự tử (29-4-1945) ngay đoạn mở đầu đã đổ tội cho người Do Thái và lợi ích buôn bán của họ là nguyên nhân gây ra Đại chiến II, chứ Hitler năm 1939 không có ý định gây chiến! Ai cũng biết là trong cuộc chiến tranh này, phát xít Đức đã giết khoảng 5-6 triệu người Do Thái, trong đó có 3 triệu chết trong các trại tập trung! Rõ ràng, chúng muốn tiêu diệt toàn bộ chủng tộc này.
Trong hoàn cảnh ác nghiệt như vậy, dân tộc Do Thái đã chứng tỏ sức sống kiên cường của mình. Không có đất đai, tổ quốc nhưng họ nhất quyết gìn giữ bằng được nền văn hoá và tinh thần dân tộc. Để làm được điều đó, họ vô cùng coi trọng giáo dục. Người Do Thái luôn nghĩ rằng, vì cuộc sống lưu vong không có tổ quốc bênh vực nên mọi thứ của họ đều có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào, trừ kiến thức và kỹ năng trong đầu óc và đôi tay mình, là những tài sản vô giá bất tận. Dù sống phiêu bạt ở bất cứ đâu, bao giờ họ cũng lo cho con cái được học hành đến nơi đến chốn. Sau khi Liên hợp quốc quyết định thành lập Nhà nước Israen, trong số vài triệu người Do Thái từ khắp thế giới trở về tổ quốc mới của mình thời gian 1948-1989, có tới hơn 100 nghìn người là tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư; trong đó có các nhà khoa học nổi tiếng thế giới như Chaim Weizmann (1892-1952, nhà hoá học Liên Xô cũ, lãnh tụ phong trào Phục quốc Do Thái, tổng thống đầu tiên nước Israen). Sau khi lập quốc, mặc dù chưa ngày nào được sống trong hoà bình, nhưng nhà nước Israen đã lập tức ban hành Luật Giáo dục nghĩa vụ, quy định trẻ em trong độ tuổi 5-16 bắt buộc phải đi học miễn phí; từ 18 tuổi trở lên nếu đồng ý thì được miễn phí học tiếp. Bộ trưởng Giáo dục Israen hiện nay nguyên là Tổng thống nước này.
Mặt bằng dân trí cao của người Do Thái đã giúp họ luôn liên hệ và đoàn kết nhất trí với nhau, dù sống ở các quốc gia khác nhau, mang quốc tích khác nhau. Trong lĩnh vực thương mại và tài chính, người Do Thái đã xây dựng nên một “đế chế” riêng của họ, nhờ đó Israen luôn có nguồn tài trợ lớn cho việc phát triển khoa học kỹ thuật và quốc phòng. Người Mỹ có câu: tiền của nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái; còn người Do Thái thì nói tài sản của họ nằm trong đầu óc.
Nhờ coi trọng giáo dục, dân tộc Do Thái dù ít người nhưng đã cống hiến cho nhân loại nhiều thiên tài lỗi lạc tầm cỡ thế giới như Heine (thơ), Kafka và Ehrenburg (văn), Beethoven, Mandelssohn (nhạc), Marx (triết), Freud (tâm lý), Picasso (hoạ), Einstein (vật lý).v.v… Một phân tích về giải Nobel thời gian 1901-1970 cho thấy, tỷ lệ người được tặng giải Nobel trên mỗi 1 triệu dân, với người Do Thái là 0,64 với người không Do Thái là 0,023. Hai nhà khoa học Israen là Aaron Ciechanover và Avraham Heshko vừa được tặng giải Nobel hoá học năm 2004. Trong thập kỷ 70, người Do Thái chiếm 7% tổng số các nhà khoa học Liên Xô. Trước đây phần lớn các nhà khoa học nguyên tử của Liên Xô cũ đều là người Do Thái. Thời Beria lãnh đạo công tác làm bom nguyên tử, từng có một giai thoại như sau: Khi thử quả bom nguyên tử đầu tiên, Beria bí mật chuẩn bị một sổ đen tên các nhà khoa học sẽ bị xét xử nếu thử bom thất bại. Rất may là bom thử thành công, khi khen thưởng, Beria nói: không cần xét gì cả, ai trước đây định tử hình thì bây giờ được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô, ai định tù chung thân thì tặng Huân chương Lênin. Hiện nay, người Do Thái chiếm một nửa số trùm xuất bản và truyền thông phương Tây.
Rõ ràng, bí quyết làm cho người Do Thái chiếm vị trí cao như vậy trong đời sống văn hoá, khoa học kỹ thuật của loài người chính là họ đã hết sức coi trọng giáo dục. Đây là một bài học cho tất cả các dân tộc khác trên thế giới.
Nguồn: Thế giới trong ta, số 243, 10/2005