Môi Xoài - Bà Rịa như một khởi đầu...
Việc các chính quyền cai trị trên bán đảo Đông Dương gây chiến tranh với nhau vì quyền lợi giữa các vương triều, giữa các thế lực các cứ và xâm chiếm lẫn nhau là thường xảy ra. Trong lịch sử từ những năm đầu sau Công nguyên, các cuộc xâm chiếm liên tục giữa cát vương triều của Phù Nam, Chân Lạp, Lâm Ấp qua lại với những bộ tộc người Thái, Miến, Mã và cả Bắc Việt Nam kéo dài cho đến thế kỉ XIX. Mạnh được yếu thua là lẽ cạnh tranh sinh tồn. Tuy vậy, một điều chúng ta phải công nhận là giữa các bộ tộc ở Đông Dương không có sự kì thị chủng tộc gây nên những hận thù truyền kiếp. Vì vậy việc các dân tộc ở lẫn lộn, xen kẽ nhau một cách hòa bình trên bán đảo Đông Dương là một thực thể. Trong chiến tranh giữa các vương triều, mục đích là chiếm đất, chiếm dân chứ không phải để cuối cùng giết tận bá tánh dân thường. Ai làm chủ đất người đó làm chủ thần dân trăm họ. Nếu không có mầm mống manh nha chống đối thì bá tánh vẫn được an cư lạc nghiệp. Chúng ta không ngạc nhiên khi những cư dân Việt sống an bình trong làng xóm người Chàm, người Miên và ngược lại. Hiện tượng này cũng xảy ra giữa Chân Lạp và Chiêm Thành với các bộ tộc Thái, Hoa, Miến, Mã Lai và Phù Nam .
Trong thế kỉ XV sự có mặt của người Việt ở phần còn lại của Chiêm Thành hoặc người Việt có mặt ở Đông Nam bộ là điều không gì đáng ngạc nhiên. Những lưu dân Việt tha phương có nhiều nguyên nhân: có thể do chiến tranh giữa các thế lực Lê Mạc; có thể vì nghèo đói không đất để sinh sống; có thể là những kẻ tù tội, trộm cướp, lưu manh; mà cũng có thể đó là những kẻ chống đối triều đình cai trị... họ muốn đi xa tìm một nơi yên bình không có thù hận; không có người hiểu quá khứ của họ; họ muốn tránh xa nơi tranh chấp mà mạng sống của con người chẳng có giá trị gì hơn con giun, con kiến. Họ muốn trốn bắt lính, trốn xâu, trốn thuế (thật ra không thế trả nổi các khoảng xâu thuế này).
Miền Chân Lạp đất rộng người thưa, sản vật phong phú được nghe kể bởi các thương hồ như là một thiên đường... một số người lặng lẽ ra đi, có thể bằng đường bộ cũng có thể là đường thủy trên các thuyền buôn, đánh cá. Không phải ai cũng đến được đích. Một số ra đi bị bỏ mạng bởi gió, sóng biển khơi; một số bị ma thiêng nước độc nằm lại giữa núi rừng, một số thành công. Người đi trước có kinh nghiệm truyền lại cho người đi sau và dần dần có mặt ở miền Đông Nam bộ. Mới đầu họ ở những vùng đất hoang vu hay lẫn với cư dân bản địa. Lần lần họ lập ra xóm, ra làng với những tập tục riêng biệt. Lâu dần có sự tranh chấp giữa xóm làng người Việt với cư dân bản địa. Và ở đất nước nào cũng vậy, quyền lợi người nhập cư trái phép luôn chịu thiệt thòi. Khi thất cơ lỡ vận, đói khát, con người chỉ cần một nơi để sinh cơ, một miếng ăn để chống đói, họ không có gì để cho kẻ khác tranh giành. Khi đã có tư sản họ xót đau, bực tức khi chúng bị cướp đoạt bởi kẻ mạnh hơn.
![]() |
Những nguồn tin cư dân Việt ở Môi Xoài... Những nguồn tin về một vùng miền trù phú... những nguồn tin cư dân Việt bị đối xử bất công có lẽ đến tai những vị quan cai trị khi trà dư tửu hậu với khách thương hồ hay với những thân nhân những người Việt lưu cư ở Quảng Nam hay Kẻ Huế. Trong một dịp nào đó đã đến tai công tử Nguyễn Phúc Nguyên, con của Nguyễn Hoàng đang trấn thủ dinh Quảng Nam từ năm 1602.
Nguyễn Phúc Nguyên là con trai thứ sáu của Nguyễn Hoàng, ông là một người hùng tài thao lược, có lòng nhân ái, mộ đạo Phật nên sau này được nhân dân Thuận Quảng mến mộ tôn là Sãi vương. Ông cho dựng chùa Hưng Long, chùa Bảo Chân ở Trà Kiệu, Quảng Nam (theo Nguyễn Đặc Xuân). Ông là một người nhìn xa trong rộng, nên rất muốn thân thiện hòa hiếu với lân bang để khi xảy ra chiến tranh với Trịnh khỏi phải lâm vào cảnh "lưỡng đầu thọ địch”.
Năm 1613, sau khi thay cha làm trấn chủ Thuận Quảng; chúa Sãi đã âm thầm vạch một kế hoạch cho tương lai. Chúa có bốn công nữ đó là Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa, Ngọc Đỉnh. Ngọc Đỉnh được gả cho Nguyễn Cửu Kiều; Ngọc Liên gả cho Nguyễn Phúc Vinh; còn Ngọc Vạn, Ngọc Khoa không thấy dấu vết để lại trong lịch sử. Nhiều học giả trong và ngoài nước đã truy tìm được tung tích quận chúa Ngọc Vạn.
Ngọc Vạn được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II (1618-1628) năm 1620, có lẽ những cư dân đang lây lất ở Môi Xoài đã là nguyên nhân cho cuộc nhân duyên không bình thường này chăng? Không biết có phải vậy không nhưng năm Quý Hợi (1623) một đoàn sứ bộ Việt Nam lên đường qua Chân Lạp đế xin với vua Chey Chetta II cho người Việt được định cư ở Môi Xoài. Không thấy cuộc di dân nào qua Môi Xoài cùng sứ bộ hay sau đó. Phải chăng cuộc ngoại giao này để hợp thức hóa những lưu dân Việt đã được định cư? Chuyện nhỏ với Chey Chetta II nhưng không nhỏ với cư dân người Việt. Với sự chấp thuận của vua Chân Lạp, những người Việt ở Môi Xoài yên tâm được Hoàng gia che chở cho sinh sống làm ăn.
Môi Xoài như một khắc ghi đầu tiên trong lịch sử khai phá Nambộ của người Việt Nam . Từ Môi Xoài họ lan rộng ra khi dân số tăng dần hoặc bởi sinh sôi hay những lưu dân sau đó; và Bà Rịa một địa danh rộng hơn của miền Đông Nam bộ được khai sinh giữa thế kỉ XVII đặt dấu ấn khai mở cho miền Đông.
Nhưng Bà Rịa không phải là một vùng đất hoàn toàn hoang hóa, vô chủ. Người Chân Lạp quản lí đất này nhưng chủ đất thật sự không phải là họ. Người ta đã đề cập đến một Vương quốc Châu Mạ nào đó với nhiều bộ tộc sinh sống nhưng không đủ căn cứ. Có lẽ người Châu Mạ, Châu Ro, Stieng là những bộ tộc bản địa cũ một vùng rộng lớn mà ngày xưa bước chân hái lượm, săn bắn đã đưa họ đi những miền xa hơn hòa lẫn với dân Phù Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp, Mã Lai, Xiêm hoặc những vùng miền Nam đảo. Có lẽ họ lãng du sinh cư rải rác nhưng chưa bao giờ thiết lập một vương triều. Có thể họ đã bị đồng hóa một phần với các bộ tộc ở Đông Nam Á. Riêng thành phần cư dân bản địa của họ ở giữa hai quốc gia Chân Lạp và Chiêm Thành thì vẫn giữ nguyên.
Họ là những người du cư chứ không định cư như người Việt. Bởi thế, khi những cư dân Việt nới rộng địa bàn hoạt động thì họ lùi sâu vào rừng hoặc lên vùng cao hơn. Thực sự trực tiếp khai mở đất đai là người Việt. Những khoảnh ruộng nước, những vườn cây trái cho đến những đường làng, ngõ xóm cũng do người Việt tạo ra. Từ đây, một sức sống mới đã tỏa dần ra trên đồng bằng non trẻ...









