Môi trường Thủ đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa
Đô thị hóa nhanh
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc gia và quan hệ quốc tế của cả nước.
Trong khoảng 55 năm qua, kể từ năm 1954 đến nay, đặc biệt từ năm 1986 (năm đổi mới) đến nay. Thủ đô Hà Nội đã đô thị hóa nhanh cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với diện tích đất đai khoảng 152 km 2, dân số khoảng 150 nghìn người vào năm 1955, nay diện tích đã tăng lên 3.347 km 2, dân số là 6 triệu 350 nghìn người. Trước năm 1990, công nghiệp Hà Nội hầu như chưa phát triển, đến năm 1995 mới có 2 khu công nghiệp (KCN) do Thủ tướng quyết định thành lập với tổng diện tích là khoảng 90 ha, nay đã có 11 KCN với tổng diện tích là 1.927 ha. Năm 1980 tỷ số người đi lại bằng xe đạp chiếm trên 80%, năm 2000 giảm xuống còn 65 - 70% và đến nay chỉ còn khoảng 2 - 3%. Ngược lại tỷ lệ số người đi lại bằng ô tô, xe máy năm 1980 chỉ chiếm dưới 5%, đến năm 2000 tăng lên khoảng 30% và đến nay đã lên tới 87 - 88% (Bảng 1).
Bảng 1: Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô Hà Nội
Đô thị hóa Thủ đô Hà Nội rất nhanh
Năm | 1943 | 1955 | 1960 | 1983 | 1993 | 2004 | 2009 | 2030 |
Dân số đô thị (1.000 người) | 140 | 150 | 412 | 800 | 1.003 | 3.000 | 6350 | 9035 |
Diện tích (km 2) | 13 | 152 | - | 460 | 920 | 920 | 3.347 | 3.347 |
Bùng nổ giao thông cơ giới
Trước năm 1980 | 2000 | Hiện nay | ||||||
Xe đạp | Ô tô, xe máy | GT công cộng | Xe đạp | Ô tô, xe máy | GT công cộng | Xe đạp | Ô tô, xe máy | GT công cộng |
80% | 5% | 15% | 65% | >30% | <5% | 2-3% | 87 - 88% | 10% |
Công nghiệp hóa
Năm | 1995 | 2000 | 2005 | 2009 |
Số KCN | 2 | 4 | 6 | 11 |
Diện tích (ha) | 90 | 268 | 702 | 1927 |
Tốc độ phát triển hệ thống hạ tầng giao thông đô thị chậm hơn rất nhiều so với tốc độ đô thị hóa và phương tiện giao thông cơ giới. Diện tích đất đai giao thông đô thị không đủ, mạng lưới đường giao thông phân bố không đồng đều, không đảm bảo chất lượng. Theo số liệu thống kê, tại các đô thị lớn thì các chỉ tiêu về hạ tầng cũng rất thấp, chỉ đáp ứng được 35 - 40% so với nhu cầu cần thiết. Ví dụ ở Hà Nội, diện tích đất giao thông chiếm khoảng 7,8%, mật độ đường đạt 3,89 km/km 2, tại Tp. Hồ Chí Minh diện tích đất giao thông khoảng 7,5% mật độ đường đạt 3,88 km/km 2. Trong khi đó ở một vài thành phố tiên tiến trên thế giới, tỷ lệ giao thông chiếm khoảng 15 - 18% phương tiện giao thông cá nhân ở các đô thị ở nước ta lại tăng trưởng rất nhanh.
Số xe máy ở Hà Nội năm 1996 có khoảng 600.000, năm 2001 gần 1 triệu xe, năm 2002 tăng lên 1,3 triệu xe và năm 2004 đã tăng tới gần 1,5 triệu xe, bình quân khoảng 1 xe máy/2 người dân, ở thành thị chủ yếu là bụi và khói từ khí đốt.
Hà Nội có số lượng PTCGĐB lớn thứ 2 cả nước, tốc độ gia tăng lượng xe ô tô và xe máy rất cao (10 và 15%).
Lượng ô tô, xe máy ước tính đến năm 2010 và 2020
Loại xe | 2006 | 2010 | 2020 |
Xe máy | 1.700.000 | 2.720.000 | 6.800.000 |
Xe ô tô | 157.000 | 219.800 | 307.720 |
Nguồn báo cáo môi trường Quốc gia năm 2007
Ô nhiễm môi trường không khí
Theo Báo cáo triển vọng môi trường toàn cầu (GEO - 4) do Chương trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) công bố ngày 26/10/2010, Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh là 2 trong 6 thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải (Trung Quốc); New Dehi (Ấn Độ), Dhaka (Bangladesh).
Ở Hà Nội, tốc độ đô thị hóa nhanh, hiện dự án cải tạo, xây dựng được triển khai nhưng chủ đầu tư, chủ công trình thiếu ý thức là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm không khí hiện nay. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển nhanh của các phương tiện giao thông mỗi năm ở Hà Nội và các nhà máy, khu công nghiệp đóng trên địa bàn khiến tình trạng ô nhiễm không khí gia tăng.
![]() |
Theo số liệu quan trắc của Sở Tài nguyên - Môi trường Hà Nội trong những năm qua, không khí ở hầu hết các khu vực dân cư đều bị ô nhiễm do hoạt động giao thông và xây dựng. Đặc biệt, tại các khu vực có hoạt động xây dựng lớn như Trung tâm Hội nghị quốc gia, đường Xuân Thủy, đường Khuất Duy Tiến… có hàm lượng bụi lơ lửng vượt QTCP. Tình trạng ô nhiễm bụi đang ở mức cao nhất Hà Nội và xu hướng ngày càng gia tăng.
Kết quả quan trắc bụi giao thông năm 2008 cho thấy, có tới 85% số điểm đo vượt tiêu chuẩn cho phép, cao hơn 2 lần so với năm 2007. Còn kết quả quan trắc 6 tháng đầu năm 2009 cho thấy tại 250 điểm quan trắc thì có 180 điểm có hàm lượng bụi lơ lửng vượt QCCP. Tại các khu vực Khuất Duy Tiến, Lê Văn Lương, Kim Giang, Khương Đình, nồng độ bụi cao gấp 3,8 lần đến 6,3 lần so với QCCP; đường Nguyễn Trãi có vị trí vượt QCCP đến 11 lần; đường Nguyễn Văn Linh vượt 10,8 lần; ngã ba Tam Trinh - Lĩnh Nam vượt 5,2 lần; đường Phạm Văn Đồng vượt 3,6 lần.
Về độ ồn, kết quả quan trắc cho thấy có 27/34 vị trí có độ ồn vượt TCCP (TCVN 5949:1998). Tại hai ngã tư: bến xe buýt Long Biên, chân cầu vượt Phạm Văn Đồng và ngã tư Ngô Gia Tự - Đức Giang độ ồn vượt 1,8 lần TCCP. Các ngã tư còn lại vượt từ 1,05 - 1,15 lần TCCP. Các khu vực ngã tư có mật độ xe cộ lưu thông cao, độ ồn cũng vượt quy chuẩn cho phép (QCCP).
Môi trường nước mặt ở Thủ đô Hà Nội bị ô nhiễm nặng
* Ô nhiễm các sông nội thành
Các sông Tô Lịch, Kim Ngưu, sông Sét, sông Lừ của Hà Nội vốn ngày xưa là cảnh quan thiên nhiên rất đẹp của Hà Nội.
“Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Anh ghé thuyền đến sát thuyền em”
Hoặc là:
“Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa”
Ngày nay đã biến thành kênh thoát nước thải chưa xử lý, các chất ô nhiễm hữu cơ vượt quy chuẩn cho phép đối với nước loại B nhiều lần, mặt nước biến thành màu đen, các khí NH 3, CH 4, H 2S bốc mùi hôi rất khó chịu.
Căn cứ số liệu quan trắc các năm 1980 - 1990, chúng tôi ngoại suy chất lượng hồ Tây trước năm 1970 còn thuộc loại A1, dân cư xung quanh hồ còn lấy nước hồ về làm nước sinh hoạt, nước hồ Bảy Mẫu còn thuộc loại A2. Sau năm 1985, nước Hồ Tây đã bị ô nhiễm thuộc loại B1 và từ năm 2000 đã trở thành nước loại B2. Còn nước Hồ Bảy Mẫu sau năm 1980 đã bị ô nhiễm thuộc loại B1, sau năm 1998 thuộc loại B2, đặc biệt bị ô nhiễm nặng vào các năm từ 2004 - 2006, vượt ngưỡng B2.
Ô nhiễm các sông suối trong vùng Hà Nội
Chất lượng nước sông Hồng đi qua Hà Nội, trước đây đạt chất lượng nước loại A, trừ hàm lượng chất lơ lửng (phù sa, nay hàm lượng BOD 5cực đại đã lên tới 5 - 10mg/l. Sông Nhuệ, sông Đáy chảy qua Thủ đô Hà Nội đã bị ô nhiễm hàm lượng BOD từ 18 - 36 mg/l (quy chuẩn nước loại B2 là BOD 5<25), hàm lượng NH 4+từ 2 - 5,5mg/l (quy chuẩn nước loại B2<= 1mg/l).
Chất lượng nước sông Tích (Hà Tây) trước đây đạt quy chuẩn nước loại A, đến nay đã có một số chỉ tiêu vượt quy chuẩn nước loại A, như là BOD 5= 8,3 (quy chuẩn A2 <= 6mg/l), chỉ còn sông Bùi là tương đối sạch, BOD 5xấp xỉ bằng 4mg/l.
Các hồ suối Hai, Đồng Mô (Hà Tây cũ) còn sạch, đạt chất lượng nước loại A2 còn hồ Quan Sơn cũng đã chớm bị ô nhiễm.
Tình trạng ngập úng ở Thủ đô Hà Nội trầm trọng
Dự án thoát nước Hà Nội do JICA (Nhật Bản) tài trợ đã được triển khai từ năm 2000, đã đầu tư kinh phí không phải là ít, nhưng thời gian qua khi có trận mưa với lượng mưa khoảng 50mm thì Hà Nội vẫn bị ngập úng, đặc biệt là ngập úng khủng khiếp năm 1984 và năm 2008, úng ngập tràn lan khắp thành phố, nhiều khu phố phải đi lại bằng thuyền, úng ngập kéo dài nhiều ngày, gây thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội. Trong 20 năm qua hầu như năm nào Hà Nội cũng bị ngập trong mùa mưa, năm ít nhất là không dưới 25 điểm bị ngập, trận mưa ngày 13/7/2010 với lượng mưa trên 100mm đã gây ra hơn 100 đường phố bị ngập, trận mưa ngày 13/7/2010 với lượng mưa trên 100mm đã gây ra hơn 100 đường phố bị úng ngập, làm cho giao thông rối loạn.
![]() |
Có thể nêu ra 4 nguyên nhân chủ quan gây ra úng ngập: một là trong thời gian dài trước đây và hiện nay, ở Hà Nội đã chuyển đổi nhiều đất cây xanh, đất nông nghiệp thành đất ở, đã lấp nhiều ao, hồ và đất trũng (trước đây thì ở trong nội thành, nay thì ở các khu đô thị mới ngoại thành) để xây dựng công trình, làm mất sự cân bằng tích chứa nước của đô thị, hai là bê tông hóa gần hầu hết diện tích mặt đất đô thị, làm giảm khả năng thấm tiêu nước mưa; ba là hệ thống thoát nước của đô thị vốn quá thấp kém cả về mạng lưới cống thoát, cả về tiết diện dòng chảy, khi cải tạo ở sông, hồ đều kè đá 45 0và một số giai đoạn sông còn bị cống hóa, nên vừa làm giảm khả năng chứa nước, vừa làm giảm dòng chảy thoát nước của Hà Nội; bốn là đô thị Hà Nội ngày càng mở rộng, tổng lượng nước mưa tập trung trong nội thị ngày càng lớn, trong khi hệ thống sông ngoài thoát nước ngày càng bị thu hẹp và các đường cống ngày càng bị bồi lắng.
Thu gom và xử lý chất thải rắn
Theo thống kê, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt của thành phố Hà Nội hiện nay ước tính khoảng 5.000 tấn/ngày, trong đó có khoảng 3.500 tấn là chất thải rắn sinh hoạt đô thị và 1.500 tấn chất thải rắn sinh hoạt nông thôn.
Chất thải rắn công nghiệp ở Hà Nội mỗi ngày có khoảng 750 tấn, trong đó tỷ lệ thu gom mới đạt 85-90% và xử lý được khoảng 60% lượng thu gom này. Công tác xử lý, tiêu hủy, tái chế chủ yếu dựa vào chôn lấp hợp vệ sinh tại một số bãi rác. Trong khi đó, phế thải xây dựng (trên 1.000 tấn/ngày) chưa được thu gom triệt để.
Tại các khu vực nông thôn, do chưa có quy hoạch các bãi chôn lấp chất thải rắn nên hình thành các bãi rác tự phát với quy mô diện tích từ vài chục đến vài trăm m 2. Các bãi này phần lớn tận dụng vùng đất trũng, ao, hồ và không được phân loại chất thải, không đáy, không có hệ thống thu gom nước rỉ rác… gây ô nhiễm môi trường xung quanh.
Hiện tại, chất thải rắn y tế nguy hại của một số bệnh viện đã được thu gom và xử lý tập trung tại lò đốt chất thải y tế Cầu Diễn, phần tro xỉ được đóng rắn và chôn lấp. Tuy nhiên vẫn còn một số bệnh viện, một ở quận Hà Đông và 13 bệnh viện tuyến huyện có lò nhưng hoạt động cầm chừng.
Trong khi đó, các bãi chôn lấp chất thải rắn hiện đã sắp đầy gây nên tình trạng thiếu bãi chôn lấp, đây thực sự là một khó khăn rất lớn của Thành phố. Sụt lún đất.
Theo kết quả công bố của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng phương pháp viễn thám INSAR vi phân trong quan trắc sụt lún đất do khai thác nước ngầm” do Viện Địa lý chủ trì nghiên cứu cho thành phố Hà Nội (2008 - 2009) và số liệu quan trắc tại các trạm đo lún cho thấy, hiện tượng tai biến lún mặt đất tại khu vực Hà Nội là rất đáng quan ngại. Các khu vực nội thành Hà Nội đang trong quá trình lún với tốc độ khác nhau.
- Khu vực lún rất mạnh: là khu vực Thành Công với độ lún hàng năm giao động từ 32 - 39 mm/năm.
- Khu vực lún mạnh: gồm các khu vực xung quanh các bãi giếng Pháp Vân, Hạ Đình, tại Pháp Vân với tốc độ lún mặt đất từ 13 - 17mm/năm, tại khu vực Hạ Đình có tốc độ lún trung bình hàng năm từ 16-18 mm.
- Khu vực lún ít: là khu vực xung quanh bãi giếng Mai Dịch, có tốc độ lún hàng năm từ 1-3 mm.
- Các khu vực khác được xếp vào vùng rất ít lún: khu vực ngoại thành và các khu vực mới được mở rộng. Theo các số liệu thống kê của Sở nhà đất Hà Nội cho thấy, số lượng nhà lắp ghép trong khu vực bị lún nứt từ 10 - 40cm hoặc lớn hơn đã lên tới 200 căn. Trong đó, có 50 căn nhà cần được sửa chữa do lún. Tình trạng lún nứt nhà và công trình xây dựng thường xảy ra trong khoảng thời kỳ có cường độ khai thác nước dưới đất mạnh (1985-1995). Kết quả theo dõi hiện tượng lún các công trình xây dựng này cho thấy tốc độ lún không giảm hoặc giảm ít trong một thời gian dài và có hiện tượng hoạt hóa lại tốc độ của các công trình sau một thời gian ngừng lún.
Tóm lại, hiện tượng lún mặt đất ở Hà Nội đã và đang xảy ra, mức độ lún ở các khu vực thường khác nhau, phụ thuộc nhiều vào điều kiện địa chất công trình (đặc biệt là tính chất cơ lý của các thành tạo địa chất) và sự hạ thấp mực nước dưới đất ở từng khu vực. Lúc có giá trị thường tập trung ở những nơi có thành tạo địa chất yếu như khu vực Thành Công, Giảng Võ và các khu vực có mực nước lớn như Pháp Vân, Hạ Đình.
Lún mặt đất do ảnh hưởng của việc khai thác nước dưới đất là một vấn đề phức tạp, vì vậy thành phố cần tăng cường các điểm quan trắc lún, phải xây dựng mạng lưới quan trắc lún tối ưu và lâu dài để có cơ sở tin cậy cho những đánh giá và dự báo hiện tượng này trong tương lai. Đồng thời, phải tiến hành quy hoạch và xây dựng mới các bãi giếng khai thác nước dưới đất dọc theo sông Hồng và sông Đuống để tận dụng được trữ lượng cuốn theo từ hai dòng mặt này cung cấp cho nước dưới đất, giảm công suất khai thác nước của các bãi giếng nằm trong nội đô đặc biệt tại những nơi có nền địa chất yếu như Pháp Vân, Hạ Đình… Đồng thời, từng bước khai thác nguồn nước mặt cung cấp cho sinh hoạt nhằm giảm lưu lượng khai thác nước ngầm.










