Mối liên hệ giữa trí thức Nho học ở Thanh - Nghệ - Tĩnh và Hà Nội trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX
Giai đoạn lịch sử những năm đầu thế kỉ XX đã diễn ra sôi nổi bởi sự dịch chuyển đầy năng động của tầng lớp trí thức Nho học trên khắp mọi miền đất nước. Được soi sáng bởi ý thức hệ dân chủ tư sản thông qua hệ thống "tân thư", "tân văn", họ đã háo hức, say mê, nhiệt thành đem cái mới đi tuyên truyền, phổ biến trong quần chúng nhân dân.
Dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và sự ảnh hưởng của trào lưu dân chủ tư sản từ bên ngoài, phong trào đấu tranh của nhân dân ta mang màu sắc mới với những biểu hiện phong phú, đa dạng, đó là: phong trào Đông du (1905-1908), phong trào Duy tân (1906-1908), Đông Kinh nghĩa thục (3/1907-12/1907), cuộc vận động kháng thuế Trung kỳ năm 1908. Các phong trào này tác động qua lại lẫn nhau, có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Phong trào yêu nước giữa các địa phương có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên bởi tầng lớp trí thức Nho học thức thời, giàu nhiệt huyết. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa trí thức Nho học ở Thanh - Nghệ - Tĩnh và Hà Nội trong thập niên đầu của thế kỉ XX nhằm làm sáng tỏ vấn đề nêu trên.
Thăng Long - Hà Nội vốn đã tồn tại hơn 10 thế kỷ (XI-XXI), từng trải qua biết bao biến động, thăng trầm của lịch sử, là vùng đất đế đô có tầm ảnh hưởng rộng lớn, có sức lan tỏa văn hóa đối với những khu vực xung quanh. Còn Thanh - Nghệ - Tĩnh trong quá khứ từng được coi là vùng đất "phên dậu" phía Nam của đất nước. Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này với truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất đã lập bao chiến công hiển hách đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi, sự yên ổn của vùng đất đế đô.
Bước sang thời kỳ Cận đại, tình hình nước ta có nhiều biến chuyển. Thanh - Nghệ - Tĩnh tiếp tục phát huy truyền thống từ trong quá khứ, vươn lên đón nhận những luồng tư tưởng mới. Nổi bật trong phong trào đấu tranh thời kỳ này là nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu - "Một vị giải nguyên lừng danh nhưng không gia nhập hàng ngũ quan trường, trái lại đã sớm dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc"(1).
Ngay từ những năm 90 của thế kỉ XIX, khi còn là một "thầy đồ Nho", Phan Bội Châu đã nuôi chí căm thù giặc, tập hợp quanh mình học trò, bạn bè, đồng chí để trù tính việc "đánh đổ giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, lập ra Chính phủ độc lập".Bắt tay vào hành động thực sự, năm 1901, Phan mới quyết định làm một cuộc bạo động cướp thành Nghệ An, tụ họp được khoảng 20 người, trong đó có Phan Bá Ngọc (con Phan Đình Phùng), Vương Thúc Quý, Trần Hải, Hà Văn Mỹ,… Phan vận động lính khố xanh định nhân ngày lễ Chính Trung (14-7-1901) thì khởi sự. Vì bên địch đề phòng nghiêm ngặt, nội ứng không hành động được nên công việc phải đình chỉ. Tên cử nhân Nguyễn Điềm mật báo cho Công sứ Pháp tại Vinh, công việc bại lộ, Phan suýt bị bắt nếu như không được Tổng đốc Đào Tấn vì có chút cảm tình riêng che chở cho.
Trước tình hình đó, Ngư Hải Đặng Thái Thân - một con người can đảm, chí khí, mưu lược - là học trò đồng thời cũng là đồng chí của Phan - đã đưa ra ý kiến xác đáng: "Xem xét thời thế cho kỹ, chúng ta chưa có cơ hội nào có thể lợi dụng được. Nếu cứ hấp tấp làm càn chắc chả đi đến thành công. Dẫu sao ta cũng làm cho tụi Pháp biết rằng quốc dân ta không phải toàn là bọn hèn nhát. Vậy ta cứ mạo hiểm làm trước, nhưng cũng mong sao cho ta cất tiếng lên trước sẽ có người hưởng ứng theo sau. Nhưng nếu chỉ khởi sự trong phạm vi Nghệ Tĩnh mà thôi thì rồi sẽ như cái thai non mới lọt lòng mẹ, chưa kịp khóc oa oa mà đã chết yểu mất. Vì thế, tôi rất lo cho tiên sinh. Tôi tưởng trước hết ta nên vào Nam ra Bắc, tìm kiếm những kẻ cùng làm việc với ta. Bắc kỳ là nơi nhiều nghĩa sĩ, từ Quảng Namvào Nam , Trung cũng thiếu gì hạng người "khảng khái bi ca". Ta nên liên kết với họ, rồi anh em 3 kỳ đồng thời khởi nghĩa, để chia sẻ lực lượng của địch, đồ đảng của ta may ra mới thành công được"(2).
Năm 1902, Phan bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm thêm những người có chí khí, quan tâm đến việc chống Pháp ở trong Nam ngoài Bắc. Cho đến năm 1904, sau cuộc hành trình xuyên Việt kéo dài tới vài năm nhằm liên kết những anh em đồng chí cả nước cùng mưu sự đánh Pháp cứu nước, Phan Bội Châu và các đồng chí của mình đã quyết định thành lập Duy tân Hội với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập của dân tộc. Hội coi việc xuất dương cầu viện là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phái đoàn xuất ngoại đầu tiên gồm: Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ lên đường vượt biên sang Nhật Bản vào mùa xuân năm 1905. Khi vừa tới Nhật Bản, được tiếp xúc với Lương Khải Siêu và một số chính khách của Nhật Bản như Thủ tướng Khuyển Dưỡng Nghị và Bá tước Đại Ôi Trọng Tín cũng như qua việc khảo sát tình hình thực tiễn trên đất nước văn minh này, Phan Bội Châu đã có sự điều chỉnh trong chủ trương, quyết định chuyển từ “cầu viện” sang “cầu học”. Đó là phong trào Đông du. Sự chuyển biến về nhận thức sâu sắc nhất của cụ Phan là cần phải có thực lực ở chính bản thân nước mình thì mới có cơ hội giành được độc lập. Đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động của phong trào Đông du. Đây thực sự là một cuộc đổi mới trong tư duy yêu nước, từ tư duy yêu nước truyền thống là bạo động, là cầm vũ khí đánh đuổi giặc ngoại xâm, khôi phục độc lập dân tộc đã chuyển sang tư duy cải cách, đổi mới, đề cao việc học tập khoa học kĩ thuật tiến bộ. Chú trọng xây dựng thực lực, trong đó việc nâng cao trình độ dân trí được đặt lên hàng đầu, là một công việc hết sức cần thiết, cần phải làm ngay trong lúc này. Để thực hiện thành công mục tiêu cầu học, Phan Bội Châu trực tiếp về nước và phát động phong trào Đông du trong phạm vi toàn quốc. Phan Bội Châu sau khi trở lại Nhật Bản đã viết tác phẩm "Khuyến quốc dân tư trợ du học văn" nhằm khích lệ tinh thần đồng bào cả nước, kêu gọi sự giúp đỡ về nhân lực và vật lực của thân sĩ cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu và Duy tân Hội, nhiều sĩ phu và thanh niên Bắc kỳ đã tham gia phong trào Đông du. Từ hai trung tâm Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi, phong trào đã lan rộng và phát triển mạnh khắp trong Nam ngoài Bắc. Trong đó, Hà Nội với vị trí trung tâm của mình đã sớm tiếp nhận các trào lưu tư tưởng mới, hưởng ứng phong trào Đông du một cách mạnh mẽ. Đi theo tiếng gọi của phong trào Đông du, từ năm 1905, một số thanh niên Hà Nội đã hăng hái xuất dương sang Nhật Bản cầu học như: anh em Lương Ngọc Quyến, Lương Nghị Khanh (con của cụ Lương Văn Can), Cao Trúc Hải, Hoàng Đình Tuân, Vũ Mẫn Kiến, Phạm Chấn Yên,…
Trong hai lần bí mật về nước vào các năm 1905 và 1906, Phan Bội Châu đều dừng chân ở Hà Nội để tụ họp các sĩ phu yêu nước bàn luận việc cứu nước. Lần về nước thứ hai (cuối năm 1906), Phan đã chủ trì cuộc họp tại nhà ông Cử ở Nội Duệ (Bắc Ninh) để bàn việc tổ chức các nhóm "Ám xã" (bạo động) và "Minh xã" (ôn hòa) và các hội nông, hội công thương, hội học,… Chính chủ trương này mà sau đó Đông Kinh nghĩa thục được thành lập vào tháng 3/1907. Điều này cho thấy Phan Bội Châu là người có ảnh hưởng lớn trong việc thành lập Đông Kinh nghĩa thục - một trường học vì nghĩa, hoạt động theo xu hướng công khai, hợp pháp. Đối với bản thân Phan Bội Châu, điều hấp dẫn nhất khi ông sang nước Nhật vốn được xem là "thánh địa văn minh" không phải là hình ảnh của những lâu đài nguy nga, tráng lệ mà chính là trình độ dân trí của họ cao, đáng ngưỡng mộ. Từ thực tế đó, Phan Bội Châu hết sức tuyên truyền, cổ động cho cuộc "cách mạng dân trí" trên đất nước ta mà bằng chứng thuyết phục nhất là phong trào Đông du - được đánh giá là một cuộc cách mạng giáo dục trên tất cả các lĩnh vực: đối tượng và mục tiêu giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu chính trị giải phóng dân tộc ta khỏi ách ngoại xâm. Trường Đông Kinh nghĩa thục được mô phỏng theo mẫu hình của trường Khánh Ứng nghĩa thục ở Nhật Bản. Trụ sở của trường đặt tại ngôi nhà số 4 và số 10 phố Hàng Đào (Hà Nội). Lương Văn Can được bầu làm Thục trưởng, Nguyễn Quyền được cử làm Giám học. Học sinh của trường được cấp phát sách vở, tài liệu học tập và không phải đóng học phí. Có thể nói: "Trong khi thực dân Pháp cố tâm kìm hãm dân tộc trong vòng lạc hậu về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa thì việc Đông Kinh nghĩa thục dũng cảm tấn công kịch liệt vào thành trì phong kiến trên lĩnh vực giáo dục văn hóa (như: chống từ chương bát cổ, chống khoa cử, bài trừ hủ tục, hương ẩm, đề cao tư tưởng và học thuật mới) là một công tác có tính cách mạng"(3). Từ Hà Nội, mô hình hoạt động của trường Đông Kinh nghĩa thục đã được nhân rộng và phát triển thành một phong trào nghĩa thục rộng lớn, vươn tầm ảnh hưởng ra các tỉnh miền Trung, trong đó có Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Ở Thanh Hóa, "Lúc ấy đã có ban Cựu học cùng ban Âu học hưởng ứng với trào lưu chung, có lập ra Hà Thành thư xã cùng giao thông với Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc, hợp thương trong Quảng và triệu dương ở Nghệ"(4). Việc tiếp cận tư tưởng mới của các sĩ phu Thanh Hóa lúc đó được kết nối bởi mối quan hệ với Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, người làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng, tỉnh Hà Đông; là con của Thượng thư Nguyễn Thượng Phiên và là rể của đại thần Tôn Thất Thuyết. Thanh Hóa được xem là quê hương thứ hai của Cụ vì Cụ theo cha vào làng Lan Châu - Nông Cống từ lúc còn nhỏ. Như chúng ta được biết, Nguyễn Thượng Hiền là một trong những yếu nhân sáng lập trường Đông Kinh nghĩa thục. Ông đã rời bỏ chức vụ Đốc học Nam Định để tham gia cuộc vận động Duy tân. Tiếp đó là Nguyễn Dữ Hàm - người xã Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông, cùng tham gia phong trào với Nguyễn Thượng Hiền tại Thanh Hóa. Nguyễn Dự Hàm là một hội viên tích cực của phong trào Duy tân ở ngoài Bắc, mà trung tâm lúc đó là Đông Kinh nghĩa thục. Nguyễn Dự Hàm lại làm rể cụ Lương Văn Can - Hiệu trưởng trường Đông Kinh nghĩa thục. Thông qua các nhân vật chủ chốt đó, các tài liệu sách báo giảng dạy, tuyên truyền tại Đông Kinh nghĩa thục được phổ biến ở Thanh Hóa, góp phần to lớn vào việc động viên, thức tỉnh đồng bào trong tỉnh. Từ đây, việc “chấn hưng kinh tế” dưới ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục được tiến hành. Phong trào lập hội buôn lan rộng từ Bắc kỳ vào Trung kỳ và Nam kỳ. Tại Thanh Hóa, "Công ty Phượng Lâu được thành lập từ cuối thế kỉ XIX mới chỉ có 200 đồng tiền vốn"(5), nay do ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục mà mở rộng kinh doanh, lập thêm chi nhánh ở Vinh, Hà Tĩnh, Huế.
Ở Nghệ Tĩnh, dưới ảnh hưởng của Đông Kinh nghĩa thục, phong trào lập trường học theo hình thức "nghĩa thục" diễn ra khá bề thế. Trường Võ Liệt ở huyện Thanh Chương (Nghệ An) thu hút nhiều thanh niên ưu tú ở các huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên, Hương Sơn, Đức Thọ,… đến học tập với các ông thầy yêu nước, có ít nhiều kiến thức "tân học" như Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, Tiến sĩ Ngô Đức Kế,… Trường Phong Phú ở huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) thu hút con em các xã huyện Can Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh đến học. Hoạt động của các trường nghĩa thục này kéo dài mãi đến năm 1912. Nhìn chung, tài liệu giảng dạy, học tập ở đây phần lớn do Đông Kinh nghĩa thục Hà Nội cung cấp. Đặc biệt, chính Tiến sĩ Ngô Đức Kế đã tham gia rất tích cực trong Ban Tu thư của Đông Kinh nghĩa thục, có nhiệm vụ biên soạn các giáo trình, tư liệu giảng dạy, học tập cho thầy trò. Quá trình hoạt động và làm việc của các sĩ phu yêu nước tại Hà Nội đã khiến cho việc trao đổi, bàn bạc phương sách cứu nước giữa các cụ Nho sĩ ở Thanh - Nghệ - Tĩnh và Hà Nội có sự gắn kết, tiến đến gần nhau hơn trong phương thức đấu tranh cách mạng.
Có thể nói, "Đông Kinh nghĩa thục tuy là một tổ chức thuộc xu hướng đổi mới, cải cách nhưng có quan hệ chặt chẽ với phái bạo động, phái Đông du. Trong thực tế hoạt động, đã có những mối quan hệ mật thiết giữa Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Đông du"(6). Giữa hai phong trào có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Thực tế, việc tuyên truyền thơ văn yêu nước, tinh thần cách mạng - một trong những nội dung quan trọng của phong trào Đông du nếu nhìn phong trào trên quy mô rộng nhất - đã được Phan Bội Châu và các đồng chí của mình thực hiện qua Đông Kinh nghĩa thục. Các trường nghĩa thục trong quá trình hoạt động đã sử dụng những tài liệu của Duy tân Hội, Đông du và nhất là của Phan Bội Châu để tuyên truyền và giảng dạy trong nhà trường như: "Hải ngoại huyết thư", "Gọi hồn quốc dân", "Nam Hải bô thần ca", "Kính quốc dân", "Đề tỉnh quốc dân hồn", "Tỉnh quốc hồn ca",… Những tài liệu thơ văn đó của ông từ Nhật Bản gửi về đã được Đông Kinh nghĩa thục phổ biến đến các tầng lớp nhân dân nhằm "giác ngộ" họ ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với vận mệnh tồn vong của dân tộc. Khi Đông Kinh nghĩa thục mới được mở, cuốn "Hải ngoại huyết thư" của Phan Bội Châu đã được lưu hành khắp cả nước và được nhiều người dịch ra lục bát hoặc song thất lục bát. Riêng bản dịch của Lê Đại - một thành viên của Đông Kinh nghĩa thục được mọi người biết đến và thuộc nhiều hơn cả, trong đó có những câu thể hiện ý chí phản kháng mạnh mẽ:
"Hòn máu uất chất quanh đầy ruột
Anh em ơi! Xin tuốt gươm ra,
Có giời, có đất, có ta
Đồng tâm như thế mới là đồng tâm!"
Mối quan hệ giữa Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Đông du thể hiện rất rõ "qua sự vận động thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản du học cũng như qua sự ủng hộ tích cực về kinh phí đối với Đông du"(7). Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc luôn luôn tích cực vận động thanh niên sang Nhật. Để hỗ trợ kinh phí cho phong trào Đông du, họ đã tổ chức kinh doanh buôn bán, đài thọ cho du học sinh. Hai công ty buôn của Đông Kinh nghĩa thục là Đồng Lợi Tế và Đông Thành Xương chính là cơ quan bí mật của Duy tân Hội, có nhiệm vụ đưa đón những người tham gia Đông du từ Việt Nam sang Nhật Bản và từ Nhật Bản về nước, đồng thời là cơ sở tài chính cho các hoạt động của Duy tân Hội. Thậm chí, Đỗ Chân Thiết - một yếu nhân của phong trào Đông Kinh nghĩa thục còn buôn bán thuốc phiện để kiếm tiền ủng hộ anh em Đông du; ngoài ra còn lập xưởng chế tạo vũ khí để chuẩn bị bạo động. Và chiều hướng phát triển của những hoạt động ở Đông Kinh nghĩa thục cũng "chuyển dần từ xu hướng ôn hòa sang xu hướng bạo động của Phan Bội Châu"(8). Đông Kinh nghĩa thục từ quá trình hoạt động của mình đã đưa tư tưởng bạo động của Phan Bội Châu vào binh lính, giác ngộ binh lính và cùng phối hợp với họ tổ chức kế hoạch hành động dẫn đến kết quả tất yếu là vụ đầu độc binh lính Pháp vào năm 1908. Đây là một vụ bạo động nổi tiếng ở đất Hà Thành trong giai đoạn này mà những diễn biến của nó đã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và Đông Kinh nghĩa thục. Việc tán thành mục đích của cuộc bạo động (sau khi thắng lợi sẽ đón Cường Để và Phan Bội Châu về nước thành lập Chính phủ) của các nhà lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục cho thấy đích đi và hướng đến của phong trào là bạo động. Đặc biệt là sau khi Đông Kinh nghĩa thục không còn nữa, một số thành viên đã chuyển sang hoạt động cho phong trào Đông du như: Bùi Liêm tham gia tổ chức của Phan Bội Châu khi phong trào Đông du tan rã; Đỗ Chân Thiết, Nguyễn Tùng Hương, Phan Đình Đối,… Qua đó, có thể khẳng định con đường phát triển của Đông Kinh nghĩa thục cuối cùng cũng đi đến bạo động. Ngay như phong trào Duy tân ở miền Trung với xu hướng chủ yếu là cải cách, đổi mới để "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" rồi cũng đi đến con đường bạo động. Đó là "một sự phát triển có tính tất yếu đặt trong hoàn cảnh một đất nước bị ngoại bang thống trị mà mâu thuẫn giữa dân tộc mất độc lập với đế quốc xâm lược là không thể điều hòa"(9). Thiết nghĩ, điều đó hoàn toàn phù hợp với con đường mà Phan Bội Châu đang tiến hành. Trong tính toán chiến lược của Cụ, cải cách chỉ được coi là biện pháp tạm thời, hỗ trợ cho con đường bạo động. "Duy tân" và "bạo động" được xem là hai biện pháp để đạt được mục tiêu chung, "duy tân" suy đến cùng lại là mặt chủ yếu, là sự chuẩn bị tích cực để tiến tới "bạo động". Vì thế, có thể khẳng định Phan Bội Châu chính là ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc nước ta hồi đầu thế kỉ XX.
Tóm lại, có thể nói, mối quan hệ giữa tầng lớp trí thức Nho học ở Thanh - Nghệ - Tĩnh và Hà Nội được bộc lộ rõ nét trong môi trường yêu nước chống Pháp hồi đầu thế kỉ XX thông qua hoạt động tiêu biểu của phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục. Phong trào yêu nước chống Pháp dưới sự lãnh đạo của tầng lớp trí thức Nho học tiến bộ hồi đầu thế kỉ có sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, tạo thành những "đợt sóng ngầm" đe dọa trực tiếp đến nền cai trị của thực dân Pháp. Có được thành quả đó chính bởi sự kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa tầng lớp trí thức Nho học ở các địa phương. Và đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Phan Bội Châu - vị lãnh tụ của phong trào yêu nước theo xu hướng bạo động trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, hoạt động yêu nước chống Pháp từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh đến Hà Nội phát triển một cách liền mạch, nhất quán từ đầu đến cuối. Thập niên đầu thế kỉ XX với bao biến động thăng trầm của lịch sử đã in dấu ấn sâu đậm về mối quan hệ đó trên cái nền chung là chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta, được hình thành và phát triển liên tục qua các chặng đường lịch sử...
Chú thích:
(1) Chương Thâu - Phan Bội Châu và sự lựa chọn con đường Đông du, tr.81. Trích trong "Việt Nam 100 năm phong trào Đông du và hợp tác Việt - Nhật để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa Huế", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2009.
(2) Tôn Quang Phiệt - Phan Bội Châu và một giai đoạn lịch sử chống Pháp của nhân dân Việt Nam, NXB Văn hóa, Hà Nội, năm 1958; tr.20.
(3), (6), (9) Đinh Xuân Lâm - Tản mạn xung quanh một ngôi trường, tr.115, 119. Trích trong "100 năm Đông Kinh nghĩa thục và công cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay", NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008.
(4) Huỳnh Thúc Kháng - Vụ chống thuế ở Trung kỳ năm 1908, NXB Ích Tri, Huế, 1946, tr.28.
(5) Nguyễn Công Bình - Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc. NXB Văn - Sử - Địa, 1959, tr.32.
(7) Đỗ Quỳnh Nga - Mối quan hệ giữa phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục, tr.267. Trích trong "Việt Nam 100 năm phong trào Đông du và hợp tác Việt - Nhật để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa Huế", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2009.
(8) Nguyễn Văn Khánh, Trần Viết Nghĩa - Cuộc vận động Đông du ở Bắc kỳ (1905-1908), tr.223. Trích trong "Việt Nam 100 năm phong trào Đông du và hợp tác Việt - Nhật để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa Huế", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2009.








