Mỗi doanh nghiệp hãy có chiến lược duy tân của chính mình
PV: Bà cho biết tại sao bà lại “yêu” các DN đến vậy? Phải chăng có một cái duyên nào đó?
Bà Phạm Chi Lan:Tôi đến với DN có thể nói là hoàn toàn tình cờ, do yêu cầu công việc thôi. Tôi học Đại học Kinh tế quốc dân (ngày đó gọi là ĐH Kinh tài). Sau này, khoa tôi học tách ra thành ĐH Ngoại thương. Sau khi ra trường, tôi được phân công về công tác tại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Lúc đó, tôi nhớ lại bài học của các thầy ở ĐH về vai trò của phòng thương mại, vai trò của DN đối với phòng thương mại và đối với sự nghiệp phát triển kinh tế ở các nước. Tôi hiểu được là một nền kinh tế phát triển, đời sống của người dân muốn được cải thiện, thì phải có những người làm kinh tế giỏi, mà đó chính là các DN. Về VCCI, tôi nghĩ là mình được làm một mảng công việc rất hay, phụ thuộc một cộng đồng rất cần thiết đối với đất nước, và tôi đã tâm niệm là phải cố gắng hết sức để làm tốt công việc.
Qua trải nghiệm thực tế, có ba điều làm tôi ấn tượng nhất về cộng đồng DN. Một là, tôi hiểu rằng, làm DN, kiếm tiền và phát triển việc kinh doanh hoàn toàn không dễ dàng, cũng đau đầu, nhức óc, cũng sứt đầu mẻ trán, cũng phải trăn trở suy nghĩ tính toán, phải lăn lộn trên thương trường, phải gánh chịu nhiều rủi ro. Những người thành công phải rất có bản lĩnh, có chí, có gan, có tài năng kinh doanh và cái tâm nữa.
Hai là, tôi có điều kiện tiếp xúc nhiều DN nước ngoài ngay từ khi nước ta còn trong thời kỳ chiến tranh, đầy rẫy hiểm nguy. Nếu chỉ kinh doanh vì tiền, tôi tin là họ không đến VN, họ có thể chết dễ dàng lắm, bởi bom đạn có tránh ai đâu, nó không phân biệt đâu là người VN và đâu là người nước ngoài. Tôi đã đọc thấy ở họ sự cảm thông, mong muốn chia sẻ và đóng góp một chút gì đó cho đất nước ta.
Những điều đó khiến tôi ngộ ra là giới kinh doanh không phải ai cũng vì tiền, mục tiêu của họ là lợi nhuận, nhưng không phải ai cũng coi lợi nhuận là trên hết, vượt lên trên tất cả và không còn những yếu tố khác nữa. Có những điều người ta đặt lên trên lợi nhuận, đấy là khía cạnh con người trong kinh doanh, là cái nhân của các DN.
PV: Vậy còn ấn tượng thứ ba?
Bà Phạm Chi Lan:Điểm thứ ba, ai cũng thấy rõ, DN đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế, cho sự phát triển của đất nước, tạo biết bao công ăn việc làm, cưu mang cuộc sống của biết bao nhiêu con người, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Nếu không có DN hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước thì hàng hoá sản xuất ra sẽ đi đâu, nếu không nói ngay khâu sản xuất cũng bị bế tắc. Nếu không có những người làm ngoại thương đi thu gom hàng, thì nông dân của ta, những người làm nghề thủ công biết bán sản phẩm ở nơi nào, họ làm sao có phương tiện để sinh sống. Trong thời bao cấp, phần lớn các DN cũng không có động lực về tiền, họ làm theo mệnh lệnh, theo kế hoạch. Nhưng nếu họ không say mê nghề nghiệp thì họ đâu cần lăn lộn đến thế, phải về các vùng xa, về miền núi, mỗi chuyến đi, đầy những rủi ro, nguy hiểm. Trong ngành thương mại, hầu như đơn vị nào cũng có người hi sinh trong khi làm công việc thương mại ngay ở hậu phương, chứ đâu phải chỉ ra chiến trường...
Tất cả những cái đó tạo cho tôi tình cảm đặc biệt đối với doanh nhân. Được làm việc với họ, tôi phát hiện ra rất nhiều điều thú vị, tôi học hỏi được ở họ rất nhiều, cả về trí tuệ, tài năng và đạo đức nghề nghiệp, về sức sáng tạo bất tận cũng như sự kiên trì, chịu đựng đáng nể phục. Thêm nữa, vì xã hội trong suốt nhiều năm nay còn rất nhiều định kiến với DN, tôi lại càng cố gắng chứng minh là có một khía cạnh khác, đúng đắn hơn về doanh nhân, đó là khía cạnh con người. Họ cũng là những con người đáng quý trọng, đáng yêu mến như bao nhiêu người thuộc các giới khác. Họ còn có nhiều cái thật hơn khối người, làm thật, tài thật, thẳng thắn thật mà thua cũng thật.
PV: Nếu chỉ trong 3 giây, trong tâm trí của bà sẽ hiện lên gương mặt doanh nhân VN nào ấn tượng nhất?
Bà Phạm Chi Lan:FPT và Tổng giám đốc Trương Gia Bình. Đó là một người được đào tạo làm khoa học, nhưng khi vào kinh doanh thì rất hay và rất thành công. Theo tôi, cái đáng quý ở Trương Gia Bình là anh biết khai thác tất cả các khía cạnh tốt của kinh doanh để phát triển ngành công nghệ thông tin (CNTT). Thực ra nếu không có những công ty như FPT và nhiều công ty khác nữa, mà chỉ có các cơ quan Nhà nước, các viện nghiên cứu hay các nhà khoa học không thôi thì làm sao chúng ta có được ngành CNTT để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước như những năm gần đây và chắc chắn còn hơn nữa trong tương lai. Trương Gia Bình còn rất quan tâm đến đào tạo con người, đào tạo nhân tài, và trong mọi hoạt động kinh doanh của anh, lúc nào cũng thấy chứa chan hồn Việt và đậm chất văn hoá.
PV: Và cũng trong 3 giây, xin bà cho biết trăn trở của mình về số phận trớ trêu, về sự rủi ro của doanh nhân nào nhất?
Bà Phạm Chi Lan:Tôi luôn cảm thấy đau về cái chết của ông Tăng Minh Phụng, ông là một nhà kinh doanh giỏi, khởi nghiệp cho bối cảnh nước ta còn đầy rẫy những khó khăn, cơ chế kinh tế còn rất mù mờ. Nhờ những nỗ lực ghê gớm và tài kinh doanh mà ông phát triển Công ty Minh Phụng của mình lên nhanh chóng. Nhưng rồi tai hoạ đến với ông. Chính cái sự mù mờ khi người ta xét xử về công việc kinh doanh của công ty ông, và cả trong cách tính giá trị tài sản, đất đai của ông, đã dẫn đến việc ông bị quy tội chết. Trong sự sụp đổ của mấy “đại gia” đầu tiên trong thời kỳ tái thiết ở nước ta, có sự sụp đổ nào đau hơn Minh Phụng, có số phận nào trớ trêu hơn số phận doanh nhân Tăng Minh Phụng.
PV: Ở nhiều nước trên thế giới, doanh nhân rất được coi trọng. Trong nhiều hội nghị, chương trình quốc gia các doanh nhân thành đạt thường được mời ngồi hàng ghế đầu. Bà suy nghĩ gì về cách ứng xử như vậy của Chính phủ đối với tầng lớp doanh nhân?
Bà Phạm Chi Lan:Điều này phụ thuộc vào bối cảnh mỗi nước. Càng ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, người ta càng hiểu được vai trò của DN. Ở đó, vai trò của Nhà nước và vai trò của doanh nhân được phân định rõ ràng. Nhà nước, Chính phủ đều hiểu là họ chỉ đưa ra đường hướng, quản lý vĩ mô, và tổ chức thực hiện một số công việc chung phục vụ cộng đồng dân cư, như phát triển hạ tầng, hệ thống giáo dục, y tế, an ninh xã hội... Còn việc làm giàu cho đất nước, phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh là của giới doanh nhân. Nhà nước không can thiệp vào, mà tìm mọi cách hỗ trợ, tạo thuận lợi cho giới doanh nhân bởi họ biết làm kinh tế không dễ, và giới doanh nhân giỏi hơn họ về lĩnh vực này. Do vậy, họ biết đánh giá công của DN, biết trọng DN. Vả lại, ở các nước phương Tây, chính phủ có thể thay đổi “xoành xoạch”, nhưng chính sách kinh tế cơ bản của họ ít thay đổi, và tầng lớp doanh nhân vẫn vậy. Cho nên, họ càng hiểu hơn rằng, có thể Chính phủ này hay Chính phủ khác, nhưng đất nước đi lên trước hết là nhờ doanh nhân, chứ không phải chỉ nhờ tài của Chính phủ.
Còn ở nước ta, bối cảnh lại khác. Ta đi lên từ chiến tranh, vai trò lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước là vô cùng to lớn trong việc giành lại độc lập cho đất nước, rồi vượt qua muôn vàn khó khăn ban đầu của thời kỳ hậu chiến, tìm con đường đổi mới để phát triển lên. Mặt khác, tầng lớp doanh nhân và cả sự nhìn nhận của xã hội với DN cũng chưa thể cao, chưa đủ để Chính phủ phải nhìn nhận cao hơn về vai trò của DN. Trong giai đoạn này, bên cạnh mục tiêu phát triển kinh tế, chúng ta còn phải xoá đói giảm nghèo, công bằng xã hôi... Thế nên, nhìn vào tăng trưởng, ta thường thấy vai trò của Chính phủ nhiều hơn là giới DN. Tôi nghĩ rằng, sau này, khi đất nước phát triển hơn, hội nhập hơn với thế giới, với các yêu cầu về minh bạch hoá và nâng tầm vai trò của Chính phủ, chắc chắn dần dần Nhà nước sẽ thấy vai trò của mình về kinh tế chỉ nên tập trung ở một số nội dung về điều hành vĩ mô, kiến tạo môi trường cho phát triển thôi, phần rất lớn còn lại là của DN. Và thái độ của xã hội đối với DN tất nhiên sẽ thay đổi.
PV: Hiện nay, rất nhiều DN nhỏ và vừa (DNNVV) lo lắng về việc VN sau khi gia nhập WTO, họ lo sợ những thách thức trong tương lai. Bà có lời khuyên gì để họ thấy rằng, dù hội nhập có khó khăn, họ vẫn có cách để tồn tại và phát triển?
Bà Phạm Chi Lan:Người ta hay nói về nguyên lý “cá lớn nuốt cá bé”. Không sai, nhưng không phải trên tất cả các lĩnh vực và trong mọi thời đại đều như vậy. Nhìn ra thế giới, sau thời kỳ tích tụ cơ bản cần thiết, ngày nay ở quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh vài trăm, vài nghìn đại gia bao giờ cũng có hàng triệu DN được coi là xương sống của nền kinh tế. Trên thị trường ngày nay, có chỗ cho cả “đàn cá lớn” và “đàn cá bé” cùng tồn tại và phát triển. “Đàn cá bé” vẫn đông đảo hơn rất nhiều so với “đàn cá lớn”, và chính “đàn cá lớn” cũng cần “đàn cá bé” để dựa vào nhau mà phát triển. Đây là thực tế ở tất cả các nước.
Một ví dụ điển hình là Unilever VN.Unilever là một trong những công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới. Họ vẫn nói rằng , thành công của Unilever ở VN là nhờ vào 15.000 DNNVV của VN trong mạng lưới phân phối của họ. Nếu không có các DNNVV này thì họ không có cách gì bán được hàng trên thị trường VN. Không phải Unilever đi thôn tính 15.000 DNNVV, mà họ mong rằng 15.000 sau này sẽ thành 16 - 17.000 và nhiều hơn nữa, và các DN này thành công thì họ càng thành công. Đấy là nguyên lý “các bên cùng thắng” trên thương trường ngày nay. DNNVV là trường tồn, các DNNVV không nên tự ti, mặc cảm là mình bé dễ bị nuốt.
Bên cạnh đó, thị trường VN vẫn còn nhiều điều kiện thuận lợi lâu dài cho DNNVV phát triển. Tâm lý tập quán kinh doanh của ta khác các nước nhiều. Cạnh tranh thực chất là để giành lấy người tiêu dùng, các DNNVV có lợi thế “người nhà”, gần gũi và hiểu người tiêu dùng hơn, đừng nên quên lợi thế đó.
PV: Các DNNVV hoàn toàn có thể tồn tại, như trên thế giới, hàng triệu DNNVV đang tồn tại. Bà có lời khuyên gì cho các DN, về tính chuyên nghiệp?
Bà Phạm Chi Lan:Tôi thấy thực sự DNNVV, dù lớn hay nhỏ, đều phải nâng cao tính chuyên nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ khi chọn nghiệp kinh doanh, phải trên tinh thần tự lực tự cường, tự mình làm một cách bài bản, không dựa dẫm, ỷ lại. Ở nước ta, tính ỷ lại, trông cậy vào sự bảo trợ của Nhà nước, vào quan hệ thân quen... còn khá lớn. Đây là điều không thể chấp nhận được trong thời đại hội nhập ngày nay.
Thứ hai, đã tham gia kinh doanh, doanh nghiệp phải chấp nhận đào thải tính quy luật có của thị trường, không nên mặc cảm khi thất bại, lĩnh vực này không thành công, ta có thể chuyển sang lĩnh vực khác. Quan trọng là phải biết điểm dừng. Và hãy tập nghĩ rằng, tuyên bố phá sản cũng là bình thường thôi, như một sự thừa nhận lĩnh vực kinh doanh đó không phải là nghề của mình, mình nên đi làm việc khác phù hợp hơn,
Thứ ba, các DN cần xoá bỏ tư duy khép kín, đặc biệt là khép kín trong quản trị. Điều đó có nghĩa là hãy chuyên môn hoá hoạt động của mình, hãy tham gia vào mạng lưới, mở rộng quan hệ hợp tác, phân công lao động... Có nhiều việc DN nên cộng tác với những người khác có chuyên môn sâu hơn mình, như kiểm toán, tư vấn...; đồng thời khi đã tương đối phát triển cũng cần tìm kiếm những nhà quản trị chuyên nghiệp về làm với mình. Khép kín và ôm đồm là sẽ lấy đi tính chuyên nghiệp rất cần thiết trong kinh doanh.
PV: Có thể nói 2007 là năm mở đầu của các duy tân lịch sử. Bà có lời chúc gì dành cho các nhà quản lý DN Việt Nam ?
Bà Phạm Chi Lan:Tôi rất mong các DN, các nhà quản lý của chúng ta sẽ có chiến lược duy tân của chính mình và thực hiện thành công. Trong thời hiện đại ngày nay, nếu DN nào không tự đổi mới mạnh mẽ, tự sáng tạo thì sẽ không tự đứng vững và phát triển được. Cuộc duy tân của đất nước tạo thuận lợi cho và cũng dựa phàn nào vào cuộc duy tân của ND. Chúc các nhà quản lý DNVN thành công trong cuộc duy tân của mình, góp phần vào thành công trong cuộc duy tân của đất nước.








