Mô hình kinh tế VAC trong tiến trình hội nhập
Đi lên từ truyền thống...
Nước ta có truyền thống làm vườn từ lâu đời. Mô hình ao trước, vườn sau dường như đã gắn bó với nông thôn Việt Nam từ hàng nghìn năm trước. Cùng với sự phát triển của đất nước và phong trào chuyển đổi cơ cấu cây trồng – vật nuôi, mô hình VAC do HLV Việt Nam khởi xướng và xây dựng đã có sự thay đổi cả về lượng và chất. Những mô hình nhỏ, quy mô hộ gia đình sản xuất theo lối tự cấp tự túc trước đây được thay bằng mô hình VAC theo kiểu trang trại, bước đầu đã hình thành được vùng chuyên canh lớn. VAC đã góp phần hồi sinh những vùng đất “chết”, những quả đồi trơ cằn sỏi đá trước đây đã xanh ngợp cả rừng cây. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, bắt nguồn từ mô hình VAC đã trở thành “vựa” trái cây, “vựa” thuỷ sản của cả nước.
Từ khi thành lập đến nay, HLV đã làm rất tốt công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, xây dựng các mô hình kinh tế, góp phần nâng cao giá trị của nhiều loại cây - con đặc sản mang lại hiệu quả thiết thực như mô hình trồng nho của HTX tiêu thụ nho ở Ninh Thuận; mô hình cải tạo vườn tạp, đưa giống nhãn mới vào trồng ở thị xã Tam Điệp (Ninh Bình); mô hình hỗ trợ 30 hộ nông dân trồng cam Đường Canh ở HTX Vũ Đệ (Hải Hậu – Nam Định); mô hình “tổ hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm VAC” của HLV Bắc Giang... Nhờ đó, ở nhiều nơi, giá trị thu nhập từ VAC mang lại chiếm tới 60 – 70% thu nhập của kinh tế hộ gia đình. Những sản phẩm từ nghề vườn như vải thiều Thanh Hà (Hải Dương), cam sành Hà Giang, xoài cát Hoà Lộc, nho Ninh Thuận,... không chỉ nổi tiếng trong nước và còn có dịp vinh danh ở nước ngoài, chất lượng không thua kém các sản phẩm cùng loại nhập ngoại. Kinh tế VAC đã góp phần khơi dậy tiềm năng đất đai, ao hồ. Hàng trăm ngàn hecta vườn tạp, ao hoang được thay bằng những mô hình kinh tế đạt giá trị hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng /năm. Từ VAC dinh dưỡng, đến cải tạo vườn tạp, những “nền tảng” ấy sẽ giúp cho kinh tế VAC hội nhập vững vàng. Chỉ có điều trong thời buổi hội nhập mạnh mẽ này, muốn các sản phẩm từ VAC có sức cạnh tranh cao thì phải tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt phải chú trọng sản xuất theo chiều sâu.
... và những thách thức
Trong bối cảnh hội nhập WTO, nền nông nghiệp nói chung, kinh tế VAC nói riêng sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có không ít những tác động ảnh hưởng đến sự phát triển, an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo. Thách thức lớn nhất vẫn là trình độ sản xuất của đa số nông dân nước ta vẫn còn rất lạc hậu, canh tác theo lối tiểu nông, nhỏ lẻ, vì thế sẽ khó tránh khỏi bị “tổn thương” khi phải “va chạm” với nền công nghiệp nông nghiệp hiện đại, tiên tiến của Thái Lan hay Trung Quốc. Chúng ta có nhiều loại đặc sản có giá trị, chất lượng không thua kém nước bạn nhưng xét về mẫu mã, hình thức và số lượng đủ lớn thì chúng ta phải “chạy maratông” may ra mới theo kịp. Chung quy vẫn chỉ là do trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, người dân chưa được tiếp cận tiến bộ kỹ thuật. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Rau quả Trung ương, có đến 70% số hộ không hiểu về kỹ thuật tỉa cành, tạo tán; 40 – 55% cho rằng, đầu tư cho giai đoạn đầu của cây là không quan trọng, chỉ có số ít hiểu rõ quy trình kỹ thuật trồng cây (30%). Hiện vườn tạp vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Đó là những vườn cho giá trị thu nhập thấp; trồng nhiều loại cây trong một vườn, có nhiều giống, nhiều loại, nhiều tuổi nên sản phẩm không có sự đồng nhất. Điều này có thể nhận thấy ở vùng chuyên canh cây ăn trái Đồng bằng sông Cửu Long. Trên thực tế, tuy gọi là vườn chuyên canh nhưng bà con vẫn “tiếc đất” trồng xen một số loại cây khác, cũng là cách để dự phòng khi cây chủ lực mất mùa. Lấy ví dụ từ cây điều, có 250.000ha trồng bằng hạt và giống không được chọn lọc, cho năng suất và chất lượng hạt kém, kích cỡ nhỏ, không đồng đều. Còn cây tiêu thì năng suất tăng chậm, người dân chưa tiếp cận biện pháp thâm canh. Việc thu hái và sơ chế sau thu hoạch còn mang tính kinh nghiệm. Với cách làm này thì chất lượng nông sản sẽ không bao giờ đồng đều theo kiểu công nghiệp được (vấn đề này ở những nước lân cận đã được giải quyết triệt để bởi họ chọn lọc ngay từ khâu giống). Theo GS.TS Ngô Thế Dân, Phó chủ tịch Thường trực HLV Việt Nam, trong bối cảnh đó, phong trào cải tạo vườn tạp của Hội đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, thời gian tới cần phát triển theo chiều sâu, tức là chú ý đến chất lượng hơn là chạy theo số lượng. “Theo tôi, để giúp nông dân, hội viên hội nhập vững vàng thì phong trào cải tạo vườn tạp của Hội cũng phải nâng lên một bước mới. Thay vì làm theo quy mô hộ gia đình (phá bỏ những cây trồng kém hiệu quả thay bằng giống cây có giá trị kinh tế cao) mà phải phối hợp với các ngành chức năng, xác định rõ đâu là lợi thế của vùng để vận động bà con hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn”- ông Dân khẳng định.
Đầu tư khoa học công nghệ để vững vàng hội nhập
Đề xuất phương án giúp kinh tế VAC hội nhập vững vàng trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá, ông Hà Minh Trung, Trưởng ban quản lý dự án, Trung ương HLV Việt Nam cho rằng: “Để công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật phát huy hiệu quả hơn nữa thì chính cán bộ Hội cũng phải nhạy bén để tiếp thu kiến thức kỹ thuật mới. Đồng thời thay đổi cách thức tổ chức và sinh hoạt Hội, cách tuyên truyền không chỉ dừng lại ở chỗ giác ngộ tư tưởng mà phải “cầm tay chỉ việc” và đi từ những mô hình cụ thể. Trên thực tế, cách tuyên truyền thông qua các mô hình cụ thể bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn”.
Một trong những giải pháp rất quan trọng trong quá trình chuyên nghiệp hoá nghề làm VAC, hướng đến những sản phẩm hàng hoá đặc trưng chính là thành lập các chi Hội VAC chuyên ngành, các câu lạc bộ để hội viên có điều kiện học tập lẫn nhau. Ở Sơn La, Bắc Giang, Vĩnh Long, Đồng Nai..., những chi Hội chuyên ngành như thế hoạt động rất hiệu quả, cách làm VAC cũng đi theo hướng chuyên sâu, thâm canh với chất lượng cao và số lượng lớn. Đây cũng là cách chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nhanh và có sức lan toả lớn. Bên cạnh việc đẩy mạnh phong trào cải tạo vườn tạp theo hướng chuyên sâu, các cấp Hội cần kết hợp với các ngành chức năng đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng - vật nuôi, đảm bảo nguồn giống chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm. Trong giai đoạn mới, các cấp Hội cần năng động, tự chủ hơn nữa để xây dựng mô hình kinh tế VAC, kinh tế trang trại theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển các loại nông sản là thế mạnh của từng vùng. Phát triển VAC phải luôn bền vững với môi trường, trong đó giải pháp hầm biôga là hướng đi bền vững nhất.
Phó chủ tịch Ngô Thế Dân cho rằng, để đảm bảo tính bền vững, kinh tế VAC cũng phải chuyển từ sản xuất theo quy mô rộng, chạy theo diện tích và sản lượng sang phát triển theo chiều sâu, lấy giá trị gia tăng và chất lượng sản phẩm làm mục tiêu. Điều này sẽ thành hiện thực nếu tiến bộ khoa học công nghệ ngày càng được áp dụng sâu rộng vào sản xuất. Khi mới thành lập, Hội đã làm tốt vai trò xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng dinh dưỡng, bảo đảm an ninh lương thực cho nông dân hội viên. Trong giai đoạn mới, các cấp Hội cần nâng cao tính năng động, tự chủ; xây dựng mô hình kinh tế VAC, kinh tế trang trại theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển các loại nông sản là thế mạnh của từng vùng để theo kịp tốc độ phát triển. Hội cần thể hiện vai trò chủ động, đề xuất với chính quyền địa phương, phối hợp với các ngành chức năng vận động, hướng dẫn, giúp đỡ người dân tận dụng tiềm năng đất đai, lao động làm VAC, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn. Việc nâng cao trình độ kỹ thuật, áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất là con đường duy nhất giúp mô hình kinh tế VAC vươn ra biển lớn” - ông Dân nhấn mạnh.
Trong một “thế giới ngày càng thu hẹp” nhờ hội nhập, nếu chúng ta có sản phẩm đặc trưng, chất lượng cao chúng ta sẽ chiến thắng. Trong quá trình 20 năm trưởng thành và phát triển, Hội đã góp phần biến những khu vườn tạp thành vườn kinh tế, cho giá trị thu nhập cao hơn. Nhưng muốn khu vườn ấy chuyên nghiệp hoá hơn thì không thể thiếu yếu tố kỹ thuật, công nghệ. Với uy tín và “thế mạnh” của mình, chắc chắn mô hình kinh tế VAC của HLV sẽ hoà nhập và chiến thắng.








