Mô hình chăn nuôi vịt Super M3 đảm bảo an toàn sinh học
Tuy nhiên hiện nay ngành chăn nuôi phát triển vẫn còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa trở thành ngành sản xuất hàng hóa. Nguyên nhân là do ngành chăn nuôi chưa nhận được sự đầu tư thích đáng về giống mới, thức ăn, chuồng trại chăn nuôi cùng quy trình vệ sinh phòng bệnh tiên tiến. Trong khi tiềm năng thế mạnh về đất đai, lao động, thị trường tiêu thụ của địa phương chưa được khai thác triệt để phát triển ngành chăn nuôi. Để tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới, nước ta đã nhập một số giống vịt cao sản như Super M3 có năng suất hơn hẳn các giống vịt nhập trước đó như vịt Anh đào Hungari; Szarwas; Super M; Super M2 v.v…
Vịt Super M3 là giống mới của hãng Cherry Valley Vương quốc Anh. Đây là giống vịt có năng suất, thịt, trứng cao, vịt bố mẹ có năng suất trứng/mái sau 48 tuần nuôi đạt 270 quả, tỷ lệ phôi 93%, tỷ lệ nở 78%. Vịt nuôi thương phẩm đến 8 tuần tuổi có khối lượng cơ thể trung bình đạt 3,8 kg, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng 2,8 kg, tỷ lệ nuôi sống đạt 97%.
Để từng bước đẩy mạnh ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh về số lượng và chất lượng, góp phần tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người chăn nuôi, phát triển đa dạng giống vật nuôi, tạo thêm sản phẩm mới nhằm phục vụ cho nhu cầu thị trường ngày một tăng. Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Viện Chăn nuôi) đã triển khai thực hiện đề tài “Xây dựng mô hình phát triển chăn nuôi vịt Super M3 đảm bảo an toàn sinh học ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh Hải Dương” do Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Dụng – Phó giám đốc Trung tâm làm chủ nhiệm đề tài. Mục tiêu của đề tài nhằm xây dựng mô hình chăn nuôi vịt Super M3 sinh sản và thương phẩm trên địa bàn hai huyện Bình Giang và Kim Thành, hoàn thiện được quy trình chăn nuôi đảm bảo an toàn sinh học đối với vịt Super M3 sinh sản và thương phẩm phù hợp trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Nuôi ở 3 quy mô 200, 400 và 600 con, mỗi quy mô được lặp lại 2 lần tại các hộ nông dân ở xã Tân Hồng (huyện Bình Giang) và xã Đồng Gia (huyện Kim Thành).
Trong thời gian 2 năm, Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương đã mở hai lớp tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi thú ý, phòng bệnh và ấp trứng vịt cho hơn 200 nông dân của 2 huyện; lựa chọn được 12 hộ dân tham gia mô hình. Kết quả triển khai cho thấy:
- Vịt Super M3 thương phẩm nuôi nhốt ở xã Tân Hồng (Bình Giang) và xã Đồng Gia (Kim Thành) tỷ lệ sống đạt từ 97%, đặc biệt tỷ lệ nuôi 300 đạt 98%. Sau 24 tuần tuổi trọng lượng trung bình đạt 3,8 kg/con đối với con trống và 3,2 kg/con đối với con mái, so sánh với quy trình ban đầu thì đạt từ 97 đến 102%.
Đối với đàn vịt Super M3 nuôi sinh sản tốc độ tăng trưởng và tiêu tốn thức ăn/kg tăng trọng không có ý nghĩa. Việc sử dụng thức ăn cho giai đoạn hậu bị, các hộ chăn nuôi đã thực hiện nghiêm túc quy trình cho ăn hạn chế theo tiêu chuẩn ăn từ 5 đến 24 tuần tuổi. Hai xã Tân Hồng và Đồng Gia đã nuôi ở 3 quy mô, con trống đạt trung bình 2,7 kg/con; con mái đạt trung bình 2,4 kg/con. Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng từ tuần thứ 24 đến 48 tuần tuổi ở 3 quy mô của xã Tân Hồng (Bình Giang) đạt từ 251 đến 254 quả/mái. Trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, khối lượng cơ thể được điều chỉnh theo khối lượng cơ thể chuẩn theo quy trình chăm sóc nuôi dưỡng của Trung tâm bằng cách khống chế lượng thức ăn trong giai đoạn nuôi hậu bị. Hiệu quả kinh tế đạt 9,5 – 9,9 triệu đồng/100 vịt/chu kỳ sản xuất tại xã Tân Hồng (Bình Giang). Tại xã Đồng Gia (Kim Thành) tổng thu 100 vịt mái sinh sản từ hơn 7,2 – 9,4 triệu đồng. Cả hai địa phương đều đạt hiệu quả cao nhất ở quy mô 300 con mái + 75 con trống.
Quá trình triển khai xây dựng mô hình cho thấy: khi các hộ nông dân có sự đầu tư vào chuồng trại, trang thiết bị, có tiềm năng về vốn, thực hiện nghiêm túc quy trình chăm sóc nuôi dưỡng, thú y phòng bệnh và an toàn sinh học trong quá trình nuôi thì hiệu quả kinh tế mang lại cho các hộ là rất lớn. Sau hai năm thực hiện chăn nuôi vịt Super M3 ở mô hình nuôi thương phẩm và nuôi sinh sản đã giúp cho các hộ tham gia mô hình tiếp cận được với giống mới, nắm được quy trình chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi vịt nói riêng, biết cách chăm sóc nuôi dưỡng giống vịt mới này; nắm được quy trình vệ sinh thú y, cách chăm sóc nuôi dưỡng đàn vịt sinh sản và thương phẩm đảm bảo an toàn dịch bệnh và quy trình trị bệnh. Đặc biệt kết quả của đề tài đã bổ sung vào cơ cấu giống chăn nuôi của tỉnh một giống vịt mới, có hiệu quả kinh tế cao và thích ứng với điều kiện sinh thái cũng như phổ biến quy trình vệ sinh thú y, cách chăm sóc nuôi dưỡng đàn vịt sinh sản và thương phẩm đảm bảo an toàn dịch bệnh và quy trình trị bệnh.








