Miền Nam Trung Hoa đối với cách mạng Việt Nam
Tìm hiểu vị trí của các tỉnh Nam Trung Hoa, cũng như ảnh hưởng của các phong trào cách mạng Trung Hoa đối với cuộc vận động cách mạng Việt Nam trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, tiến sĩ sử học Christopher E. Gosha ở Trường Cao học thực hành Pháp đã viết bài “Suy nghĩ về miền Nam Trung Hoa và cách mạng Việt Nam giữa hai cuộc chiến tranh” đăng trên tập san Approche Asie (Tiếp cận châu Á) số 16, 1999, xuất bản tại Nice. Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt bài báo trên.
Quan hệ Việt Nam - Trung Hoa đã được xây dựng từ lâu đời. Trong lịch sử, người Việt Nam luôn có xu hướng đi về phía nam, nhưng không phải vì thế mà không có một luồng di dân từ Việt Nam sang Trung Quốc. Đầu thế kỷ XV, sau khi chiếm Đại Việt, nhà Minh đã đưa hàng ngàn thợ thủ công, nhà buôn, nhà sư và nhà nho sang các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Năm 1407, Trương Phụ đã đưa 7.700 thợ thủ công Việt Nam đến Nam Kinh (1).
Người Việt Nam còn sang bên kia biên giới Trung Hoa vì những lí do khác nữa. Năm 1608 tổng đốc Lương Quảng báo cáo rằng có 700 tên cướp người Việt tràn vào châu Khâm (2), và việc buôn bán phụ nữ trẻ em người Việt tồn tại ở khắp vùng biên giới Trung - Việt. Việc buôn bán trên biển của người Trung Hoa và Bồ Đào Nha cũng thu hút người Việt Nam đến các vùng ven biển Nam Trung Hoa. Thuỷ thủ Việt Nam cũng thường theo tàu thuyền Trung Hoa và phương Tây đến Quảng Châu và Ma Cao. Thế kỷ XVI, các cộng đồng công giáo ở châu Á đã đưa người Việt Nam đến Ma Cao.
Nhưng luồng di dân lên phía Bắc chỉ phát triển dưới thời thuộc địa Pháp. Việc mở đường sắt Côn Minh tiến hành từ 1903 đến 1913, đã thu hút khoảng 25.000 người Việt Nam sang Vân Nam làm việc. Sau khi đường sắt hoàn thành, số người Việt Nam còn ở lại trên tuyến đường này từ Hà Khẩu đến Côn Minh, thường xuyên có 2.000 người. Ngoài ra còn có những người đến đây làm việc trong các trường học của Pháp, các nhà thờ và hội truyền giáo, chi nhánh ngân hàng Đông Dương, và mở hiệu ăn cũng như các nghề thủ công khác… Theo một tài liệu của Việt Nam thì năm 1930 ước tính có khoảng 10.000 người.
Ở các thành phố ven biển như Quảng Châu, Ma Cao, Thượng Hải, không có con số thống kê cụ thể, nhưng biết rằng tại các khu nhượng địa của Pháp đều có người Việt trong binh lính đồn trú và viên chức làm việc trong các toà lãnh sự, trường học, hội truyền giáo và các cơ sở thương mại… Tuy không có con số rõ ràng nhưng ước tính vào năm 1930, có khoảng từ 1 đến 2 nghìn người Việt Nam làm đủ các nghề ở các thành phố nhỏ tại hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông.
Phong trào Đông Du: sự di trú của những người cách mạng
![]() |
Gia đình ông Hồ Học Lãm tại Nam Kinh năm 1937 (Hàng ngồi: ông bà Hồ Học Lãm và con gái út Hồ Mộ La, hàng đứng từ trái qua: Hồ Diệc Lan và Lê Quốc Vọng tức Lê Thiết Hùng) |
Nhưng năm 1908, khi Chính phủ Nhật Bản quyết định trục xuất khoảng 200 sinh viên Việt Nam, thì Phan Bội Châu phải tìm về Xiêm và các tỉnh Nam Trung Hoa. Sau cuộc cách mạng năm 1911, Phan chủ trương dồn lực lượng về Hoa Nam, vì lúc này ba tỉnh Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam đang là căn cứ của lực lượng cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, người mà Phan đã từng gặp ở Nhật. Hoạt động của Phan Bội Châu và Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc đã được nghiên cứu nhiều, nhưng cái mà ta quan tâm là những người cách mạng Việt Nam muốn bắt rễ tổ chức của mình trong những người Việt di cư tại đây và tìm cách đưa người sang học tập ở Trung Quốc. Báo cáo của Pháp năm 1913 nói rằng thanh niên trí thức Việt Nam thích sang học ở Quảng Châu hơn là Vân Nam, vì nơi này có nhiều trường trung học, đại học và học viện. Quả thật từ năm 1911, sau Cách mạng Tân Hợi, thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông đã trở thành nơi gặp gỡ của hầu hết các nhà cách mạng Châu Á.
Nếu như ở Xiêm, Đặng Thúc Hứa đã đóng vai trò chủ chốt trong việc truyền bá tư tưởng yêu nước trong những cộng đồng người Việt, cụ thể là ở Udon Thani, thì ở Trung Quốc, trách nhiệm đó lại do một người Việt Nam mà ở phương Tây ít người biết đến: đó là Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng xuất sắc giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Hồ Học Lãm, trung gian giữa Trung Quốc và Việt Nam
Ông sinh năm 1884, ở làng Quỳnh Đôi, tỉnh Nghệ An, cha là Hồ Bá Tri, có tư tưởng chống Pháp nhưng chết sớm sau khi sinh ra ông. Chú của Hồ Học Lãm là Hồ Bá Ôn, tham gia khởi nghĩa Phan Đình Phùng, hy sinh năm 1883. Năm 1906, được họ hàng giúp đỡ, Hồ Học Lãm sang Nhật trong phong trào Đông du. Ông theo học Học viện quân sự Trấn Vũ ở Tokyo. Năm 1909 bị trục xuất, ông sang Trung Quốc, tìm đến Bắc Kinh. Nhờ một thư tiến dẫn gửi cho tướng Đoàn Kỳ Thụy, ông được vào Học viện quân sự Bảo Định gần Bắc Kinh. Ra trường năm 1911, ông trở thành sĩ quan trong quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa (4).
Hồ Học Lãm hết lòng ủng hộ cách mạng Trung Hoa và tham gia các hoạt động yêu nước của người Việt ở các tỉnh Nam Trung Hoa. Ông còn là huấn luyện viên quân sự cho Quang Phục hội. Khi chiến tranh thế giới bùng nổ, ông muốn về nước hoạt động, nhưng Phan Bội Châu giữ ông lại vì biết ông có vị trí quan trọng trong quân đội Trung Hoa. Vào những năm 20, Hồ Học Lãm được đề bạt trung tá và làm việc ở Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân đội QDĐ. Nhờ có quan hệ tốt nên ông rất có uy tín ở cơ quan này, thỉnh thoảng ông còn tham gia dạy trường Hoàng Phố. Theo các nguồn tài liệu Việt Nam thì Hồ Học Lãm đã cùng học ở Học viện Trấn Vũ ở Tokyo và Học viện Bảo Định ở Bắc Kinh cùng với Tưởng Giới Thạch. Ông cũng đã giúp Tưởng nhiều thời kỳ chiến tranh Bắc phạt. Ngoài ra ông còn là bạn của Hồ Hán Dân, tỉnh trưởng Quảng Đông.
Hồ Học Lãm còn có nhiều quan hệ với những người cách mạng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá. Là chú của Hồ Tùng Mậu (1896-1948), cộng tác viên gần gũi của Hồ Chí Minh. Vợ ông, Ngô Khôn Duy (1893-1980), là con gái của Ngô Quảng, một chiến sĩ của Phan Đình Phùng, đã lánh sang Xiêm sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tại đây Ngô Khôn Duy theo học các lớp yêu nước của Đặc Thúc Hứa, rồi được đưa sang Trung Quốc. Bà đã gặp và kết hôn với Hồ Học Lãm được Phan Bội Châu tác thành. Nguyễn Trí Dục, một nữ chiến sĩ ở Xiêm cũng gặp Lê Hồng Sơn qua việc đi lại nhà Hồ Học Lãm. Lê Thiết Hùng, cháu họ Lê Hồng Phong, sau này cũng trở thành con rể Hồ Học Lãm.
Nói tóm lại, những người cách mạng thường có quan hệ gia đình với nhau. Sau chiến tranh thế giới, Hồ Học Lãm tiếp tục hoạt động bí mật và có hiệu quả trong công việc kế thừa phong trào Đông du. Ông tiếp nhận những người do Đặng Thúc Hứa từ Xiêm gửi sang để đưa vào các trường quân sự ở Quảng Châu, Nam Kinh và Hàng Châu. Ông giúp tìm việc làm và nơi ở cho họ, ông còn dạy Hồ Tùng Mậu học tiếng Trung Hoa và giới thiệu với Phan Bội Châu. Giữa năm 1924, Hồ Học Lãm cử Hồ Tùng Mậu về Nghệ An tuyển thanh niên đưa ra nước ngoài. Ta có thể đặt giả thuyết rằng việc tuyển chọn này thường dựa vào mối quan hệ gia đình do Hồ Học Lãm và Đặng Thúc Hứa quyết định (5).
Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cách mạng Việt Nam ở miền Nam Trung Hoa dựa chủ yếu vào những người như Hồ Học Lãm và những người có quan hệ với ông kể cả ở trong và ngoài nước. Vị trí của họ trong chính quyền Trung Hoa và mối quan hệ họ hàng với nhau đã khiến họ trở thành những người trung gian tuyệt vời: họ là người tiếp xúc văn hoá – xã hội không thể thiếu ở bên ngoài đất nước. Họ quyên tiền, tạo mối quan hệ với ĐCS và QDĐ Trung Hoa và Việt Nam. Họ là mắt xích sống của màng lưới cách mạng. Louis Marty, trùm mật thám Đông Dương đã đánh giá vai trò của Hồ Học Lãm khi đến thăm miền Nam Trung Hoa năm 1932: “Tôi quan tâm đến việc theo dõi không bao giờ lơi lỏng đối với con người đó, qua y mà ta tìm được những người cách mạng đang hoạt động, vì y là trung tâm thu hút và thường xuyên che chở cho họ” (6). Cho đến khi qua đời, năm 1942, nhà của Hồ Học Lãm là “Bộ chỉ huy không chính thức” của các nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc cũng như của tất cả những người đến từ phương Tây và Nam Dương (7).
Khi Hồ Chí Minh đến Quảng Châu cuối năm 1924, ông cũng nắm ngay tầm quan trọng của mối quan hệ Trung - Việt về chính trị và họ hàng để thành lập VNTNCMĐCH. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh dựa vào Hồ Tùng Mậu, cháu của Hồ Học Lãm, và vào Lê Hồng Sơn, một người gần gũi với hoàng thân Cường Để và Hồ Học Lãm. Còn với Hồ Học Lãm, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy đây là con người lý tưởng để nắm tình hình QDĐ Trung Hoa đang xấu đi, Hồ Chí Minh đã yêu cầu Lê Thiết Hùng, một người gần gũi với Hồ Học Lãm, tham gia quân đội QDĐ để thông tin cho ĐCSTH về tình hình đối phương, trong trường hợp Hồ Học Lãm không nắm được hết. Nhờ Hồ Học Lãm mà từ mùa hè đến mùa thu 1930, Hồng quân Trung Hoa đã “thường xuyên nhận được” tin tức “bí mật” về kế hoạch của Tưởng đối với ĐCSTH, có lẽ là nói đến những cuộc càn quét vào khu Xô Viết ở Giang Tây. Chính Hồ Học Lãm đã thông báo cho Hồng quân biết những cuộc tấn công lớn của QDĐ cuối năm 1933 đầu năm 1934 vào khu căn cứ.
Hồ Học Lãm là một trường hợp cụ thể về mối quan hệ liên kết cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Nam Trung Hoa. Và đây không phải là trường hợp duy nhất.
____________________________
1. Zhang Xiuman, Minh đại Giao chỉ nhân tại Trung Quốc nội địa chi cống hiến, Minh đại Giao chỉ nhân nhân di cư Trung Quốc nội địa khảo.
2 . Minh chí lược.
3. “Báo cáo của Sogny”, Huế 20-11-1923, p.l.c 359. Lưu trữ Hải ngoại Pháp (CAOM). Aix-en-Provence.
4. Hoàng Thanh Đạm, Phan Hữu Thỉnh, Đời nối đời vì nước, NXB Nghệ An, 1996.
5. Hồ Khải Đại, “Hồ Học Lãm và di tác quân sự”, Xưa và Nay, tháng 3, 1998.
6. Nguồn tài liệu Pháp cũng xác định vào giữa tháng 7- 1924 có khoảng 170 người rời khỏi huyện Nam Đàn (Hồ sơ CAOM). Rất thú vị nếu xác minh được lý lịch những người đó (nhất là sau vụ bãi khoá năm 1926), để xác định thêm thành phần những người tham gia Thanh Niên có quan hệ họ hàng từ bên ngoài với bên trong nước như thế nào.
7. Phái đoàn Marty ở Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải, tháng 7/1932, CAOM.
8. Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, NXB Tin Việt Nam, Bắc Kinh, 1986.
Nguồn: Xưa và Nay, số 75, 5/2000, tr 14, 15, 40









