Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 17/03/2006 00:12 (GMT+7)

Miền Nam Trung Hoa đối với cách mạng Việt Nam

Tìm hiểu vị trí của các tỉnh Nam Trung Hoa, cũng như ảnh hưởng của các phong trào cách mạng Trung Hoa đối với cuộc vận động cách mạng Việt Nam trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, tiến sĩ sử học Christopher E. Gosha ở Trường Cao học thực hành Pháp đã viết bài “Suy nghĩ về miền Nam Trung Hoa và cách mạng Việt Nam giữa hai cuộc chiến tranh” đăng trên tập san Approche Asie (Tiếp cận châu Á) số 16, 1999, xuất bản tại Nice. Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt bài báo trên.

Quan hệ Việt Nam - Trung Hoa đã được xây dựng từ lâu đời. Trong lịch sử, người Việt Nam luôn có xu hướng đi về phía nam, nhưng không phải vì thế mà không có một luồng di dân từ Việt Nam sang Trung Quốc. Đầu thế kỷ XV, sau khi chiếm Đại Việt, nhà Minh đã đưa hàng ngàn thợ thủ công, nhà buôn, nhà sư và nhà nho sang các tỉnh phía Nam Trung Hoa. Năm 1407, Trương Phụ đã đưa 7.700 thợ thủ công Việt Nam đến Nam Kinh (1).

Người Việt Nam còn sang bên kia biên giới Trung Hoa vì những lí do khác nữa. Năm 1608 tổng đốc Lương Quảng báo cáo rằng có 700 tên cướp người Việt tràn vào châu Khâm (2), và việc buôn bán phụ nữ trẻ em người Việt tồn tại ở khắp vùng biên giới Trung - Việt. Việc buôn bán trên biển của người Trung Hoa và Bồ Đào Nha cũng thu hút người Việt Nam đến các vùng ven biển Nam Trung Hoa. Thuỷ thủ Việt Nam cũng thường theo tàu thuyền Trung Hoa và phương Tây đến Quảng Châu và Ma Cao. Thế kỷ XVI, các cộng đồng công giáo ở châu Á đã đưa người Việt Nam đến Ma Cao.

Nhưng luồng di dân lên phía Bắc chỉ phát triển dưới thời thuộc địa Pháp. Việc mở đường sắt Côn Minh tiến hành từ 1903 đến 1913, đã thu hút khoảng 25.000 người Việt Nam sang Vân Nam làm việc. Sau khi đường sắt hoàn thành, số người Việt Nam còn ở lại trên tuyến đường này từ Hà Khẩu đến Côn Minh, thường xuyên có 2.000 người. Ngoài ra còn có những người đến đây làm việc trong các trường học của Pháp, các nhà thờ và hội truyền giáo, chi nhánh ngân hàng Đông Dương, và mở hiệu ăn cũng như các nghề thủ công khác… Theo một tài liệu của Việt Nam thì năm 1930 ước tính có khoảng 10.000 người.

Ở các thành phố ven biển như Quảng Châu, Ma Cao, Thượng Hải, không có con số thống kê cụ thể, nhưng biết rằng tại các khu nhượng địa của Pháp đều có người Việt trong binh lính đồn trú và viên chức làm việc trong các toà lãnh sự, trường học, hội truyền giáo và các cơ sở thương mại… Tuy không có con số rõ ràng nhưng ước tính vào năm 1930, có khoảng từ 1 đến 2 nghìn người Việt Nam làm đủ các nghề ở các thành phố nhỏ tại hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông.

Phong trào Đông Du: sự di trú của những người cách mạng

Gia đình ông Hồ Học Lãm tại Nam Kinh năm 1937 (Hàng ngồi: ông bà Hồ Học Lãm và con gái út Hồ Mộ La, hàng đứng từ trái qua: Hồ Diệc Lan và Lê Quốc Vọng tức Lê Thiết Hùng)

Gia đình ông Hồ Học Lãm tại Nam Kinh năm 1937 (Hàng ngồi: ông bà Hồ Học Lãm và con gái út Hồ Mộ La, hàng đứng từ trái qua: Hồ Diệc Lan và Lê Quốc Vọng tức Lê Thiết Hùng)

Những người cách mạng Việt Nam chống lại chế độ thuộc địa Pháp đã tìm đến các tỉnh Nam Trung Hoa để lập căn cứ an toàn bên kia biên giới, để tiếp cận những người mới gia nhập tổ chức và đểtiếp xúc dễ dàng hơn với các tổ chức Trung Hoa, nhưng chủ yếu là để tìm nguồn đóng góp tài chính cho các hoạt động của mình. Tất nhiên họ nhằm vào sự giúp đỡ của các nhà cách mạng Trung Quốc đang nắmquyền. Khi vận động phong trào Đông Du, Phan Bội Châu hướng về Nhật Bản, nhưng không bỏ qua tình hình ở Trung Quốc. Nam 1906, trước khi sang Nhật Bản theo yêu cầu của Phan Bội Châu, hoàng thân CườngĐể đã đến Quảng Châu ở tại nhà một người em gái lấy chồng là nhà buôn Trung Hoa (3).

Nhưng năm 1908, khi Chính phủ Nhật Bản quyết định trục xuất khoảng 200 sinh viên Việt Nam, thì Phan Bội Châu phải tìm về Xiêm và các tỉnh Nam Trung Hoa. Sau cuộc cách mạng năm 1911, Phan chủ trương dồn lực lượng về Hoa Nam, vì lúc này ba tỉnh Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam đang là căn cứ của lực lượng cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, người mà Phan đã từng gặp ở Nhật. Hoạt động của Phan Bội Châu và Việt Nam Quang Phục hội ở Trung Quốc đã được nghiên cứu nhiều, nhưng cái mà ta quan tâm là những người cách mạng Việt Nam muốn bắt rễ tổ chức của mình trong những người Việt di cư tại đây và tìm cách đưa người sang học tập ở Trung Quốc. Báo cáo của Pháp năm 1913 nói rằng thanh niên trí thức Việt Nam thích sang học ở Quảng Châu hơn là Vân Nam, vì nơi này có nhiều trường trung học, đại học và học viện. Quả thật từ năm 1911, sau Cách mạng Tân Hợi, thành phố Quảng Châu tỉnh Quảng Đông đã trở thành nơi gặp gỡ của hầu hết các nhà cách mạng Châu Á.

Nếu như ở Xiêm, Đặng Thúc Hứa đã đóng vai trò chủ chốt trong việc truyền bá tư tưởng yêu nước trong những cộng đồng người Việt, cụ thể là ở Udon Thani, thì ở Trung Quốc, trách nhiệm đó lại do một người Việt Nam mà ở phương Tây ít người biết đến: đó là Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng xuất sắc giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.

Hồ Học Lãm, trung gian giữa Trung Quốc và Việt Nam

Ông sinh năm 1884, ở làng Quỳnh Đôi, tỉnh Nghệ An, cha là Hồ Bá Tri, có tư tưởng chống Pháp nhưng chết sớm sau khi sinh ra ông. Chú của Hồ Học Lãm là Hồ Bá Ôn, tham gia khởi nghĩa Phan Đình Phùng, hy sinh năm 1883. Năm 1906, được họ hàng giúp đỡ, Hồ Học Lãm sang Nhật trong phong trào Đông du. Ông theo học Học viện quân sự Trấn Vũ ở Tokyo. Năm 1909 bị trục xuất, ông sang Trung Quốc, tìm đến Bắc Kinh. Nhờ một thư tiến dẫn gửi cho tướng Đoàn Kỳ Thụy, ông được vào Học viện quân sự Bảo Định gần Bắc Kinh. Ra trường năm 1911, ông trở thành sĩ quan trong quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa (4).

Hồ Học Lãm hết lòng ủng hộ cách mạng Trung Hoa và tham gia các hoạt động yêu nước của người Việt ở các tỉnh Nam Trung Hoa. Ông còn là huấn luyện viên quân sự cho Quang Phục hội. Khi chiến tranh thế giới bùng nổ, ông muốn về nước hoạt động, nhưng Phan Bội Châu giữ ông lại vì biết ông có vị trí quan trọng trong quân đội Trung Hoa. Vào những năm 20, Hồ Học Lãm được đề bạt trung tá và làm việc ở Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân đội QDĐ. Nhờ có quan hệ tốt nên ông rất có uy tín ở cơ quan này, thỉnh thoảng ông còn tham gia dạy trường Hoàng Phố. Theo các nguồn tài liệu Việt Nam thì Hồ Học Lãm đã cùng học ở Học viện Trấn Vũ ở Tokyo và Học viện Bảo Định ở Bắc Kinh cùng với Tưởng Giới Thạch. Ông cũng đã giúp Tưởng nhiều thời kỳ chiến tranh Bắc phạt. Ngoài ra ông còn là bạn của Hồ Hán Dân, tỉnh trưởng Quảng Đông.

Hồ Học Lãm còn có nhiều quan hệ với những người cách mạng ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá. Là chú của Hồ Tùng Mậu (1896-1948), cộng tác viên gần gũi của Hồ Chí Minh. Vợ ông, Ngô Khôn Duy (1893-1980), là con gái của Ngô Quảng, một chiến sĩ của Phan Đình Phùng, đã lánh sang Xiêm sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tại đây Ngô Khôn Duy theo học các lớp yêu nước của Đặc Thúc Hứa, rồi được đưa sang Trung Quốc. Bà đã gặp và kết hôn với Hồ Học Lãm được Phan Bội Châu tác thành. Nguyễn Trí Dục, một nữ chiến sĩ ở Xiêm cũng gặp Lê Hồng Sơn qua việc đi lại nhà Hồ Học Lãm. Lê Thiết Hùng, cháu họ Lê Hồng Phong, sau này cũng trở thành con rể Hồ Học Lãm.

Nói tóm lại, những người cách mạng thường có quan hệ gia đình với nhau. Sau chiến tranh thế giới, Hồ Học Lãm tiếp tục hoạt động bí mật và có hiệu quả trong công việc kế thừa phong trào Đông du. Ông tiếp nhận những người do Đặng Thúc Hứa từ Xiêm gửi sang để đưa vào các trường quân sự ở Quảng Châu, Nam Kinh và Hàng Châu. Ông giúp tìm việc làm và nơi ở cho họ, ông còn dạy Hồ Tùng Mậu học tiếng Trung Hoa và giới thiệu với Phan Bội Châu. Giữa năm 1924, Hồ Học Lãm cử Hồ Tùng Mậu về Nghệ An tuyển thanh niên đưa ra nước ngoài. Ta có thể đặt giả thuyết rằng việc tuyển chọn này thường dựa vào mối quan hệ gia đình do Hồ Học Lãm và Đặng Thúc Hứa quyết định (5).

Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng cách mạng Việt Nam ở miền Nam Trung Hoa dựa chủ yếu vào những người như Hồ Học Lãm và những người có quan hệ với ông kể cả ở trong và ngoài nước. Vị trí của họ trong chính quyền Trung Hoa và mối quan hệ họ hàng với nhau đã khiến họ trở thành những người trung gian tuyệt vời: họ là người tiếp xúc văn hoá – xã hội không thể thiếu ở bên ngoài đất nước. Họ quyên tiền, tạo mối quan hệ với ĐCS và QDĐ Trung Hoa và Việt Nam. Họ là mắt xích sống của màng lưới cách mạng. Louis Marty, trùm mật thám Đông Dương đã đánh giá vai trò của Hồ Học Lãm khi đến thăm miền Nam Trung Hoa năm 1932: “Tôi quan tâm đến việc theo dõi không bao giờ lơi lỏng đối với con người đó, qua y mà ta tìm được những người cách mạng đang hoạt động, vì y là trung tâm thu hút và thường xuyên che chở cho họ” (6). Cho đến khi qua đời, năm 1942, nhà của Hồ Học Lãm là “Bộ chỉ huy không chính thức” của các nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc cũng như của tất cả những người đến từ phương Tây và Nam Dương (7).

Khi Hồ Chí Minh đến Quảng Châu cuối năm 1924, ông cũng nắm ngay tầm quan trọng của mối quan hệ Trung - Việt về chính trị và họ hàng để thành lập VNTNCMĐCH. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh dựa vào Hồ Tùng Mậu, cháu của Hồ Học Lãm, và vào Lê Hồng Sơn, một người gần gũi với hoàng thân Cường Để và Hồ Học Lãm. Còn với Hồ Học Lãm, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy đây là con người lý tưởng để nắm tình hình QDĐ Trung Hoa đang xấu đi, Hồ Chí Minh đã yêu cầu Lê Thiết Hùng, một người gần gũi với Hồ Học Lãm, tham gia quân đội QDĐ để thông tin cho ĐCSTH về tình hình đối phương, trong trường hợp Hồ Học Lãm không nắm được hết. Nhờ Hồ Học Lãm mà từ mùa hè đến mùa thu 1930, Hồng quân Trung Hoa đã “thường xuyên nhận được” tin tức “bí mật” về kế hoạch của Tưởng đối với ĐCSTH, có lẽ là nói đến những cuộc càn quét vào khu Xô Viết ở Giang Tây. Chính Hồ Học Lãm đã thông báo cho Hồng quân biết những cuộc tấn công lớn của QDĐ cuối năm 1933 đầu năm 1934 vào khu căn cứ.

Hồ Học Lãm là một trường hợp cụ thể về mối quan hệ liên kết cách mạng Việt Nam trong bối cảnh Nam Trung Hoa. Và đây không phải là trường hợp duy nhất.

____________________________

1. Zhang Xiuman, Minh đại Giao chỉ nhân tại Trung Quốc nội địa chi cống hiến, Minh đại Giao chỉ nhân nhân di cư Trung Quốc nội địa khảo.

2 . Minh chí lược.

3. “Báo cáo của Sogny”, Huế 20-11-1923, p.l.c 359. Lưu trữ Hải ngoại Pháp (CAOM). Aix-en-Provence.

4. Hoàng Thanh Đạm, Phan Hữu Thỉnh, Đời nối đời vì nước, NXB Nghệ An, 1996.

5. Hồ Khải Đại, “Hồ Học Lãm và di tác quân sự”, Xưa và Nay, tháng 3, 1998.

6. Nguồn tài liệu Pháp cũng xác định vào giữa tháng 7- 1924 có khoảng 170 người rời khỏi huyện Nam Đàn (Hồ sơ CAOM). Rất thú vị nếu xác minh được lý lịch những người đó (nhất là sau vụ bãi khoá năm 1926), để xác định thêm thành phần những người tham gia Thanh Niên có quan hệ họ hàng từ bên ngoài với bên trong nước như thế nào.

7. Phái đoàn Marty ở Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải, tháng 7/1932, CAOM.

8. Hoàng Văn Hoan, Giọt nước trong biển cả, NXB Tin Việt Nam, Bắc Kinh, 1986.


Nguồn: Xưa và Nay, số 75, 5/2000, tr 14, 15, 40

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

An Giang: Hoàn thiện khung hệ giá trị văn hóa trong kỷ nguyên mới
Ngày 26/12, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức hội thảo: “Xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, con người An Giang thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong kỷ nguyên mới”. TS. Hồ Ngọc Trường - Tỉnh ủy viên, Hiệu trưởng Trường Chính trị Tôn Đức Thắng; Bà Nguyễn Thị Hồng Loan - Phó Trưởng Ban TG&DV Tỉnh ủy đồng Chủ trì hội thảo
Đảng, Nhà nước tặng quà nhân dịp chào mừng Đại hội XIV của Đảng và Tết Bính Ngọ
Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa ký công điện số 418 ngày 28/12/2025 về việc tặng quà của Đảng, Nhà nước nhân dịp chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Tết Nguyên đán Bính Ngọ năm 2026 cho người có công với cách mạng, các đối tượng bảo trợ xã hội, hưu trí xã hội và đối tượng yếu thế khác.
Lào Cai: Hội nghị triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026
Chiều 28/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh tổ chức hội nghị Ban Chấp hành nhằm đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2025; thảo luận, thống nhất phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 và quyết định một số nội dung theo thẩm quyền.
Vai trò nòng cốt, quy tụ trí tuệ, kết nối nguồn lực của VAA trong điều khiển và tự động hóa
Ngày 27/12 tại Hà Nội, Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA) long trọng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2025-2030. Với chủ đề “Tiếp nối - Phát triển”, Đại hội thể hiện rõ định hướng kế thừa, đổi mới và quyết tâm của VAA trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, nơi khoa học - công nghệ và tự động hóa giữ vai trò then chốt.
Gia Lai: Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tổng kết hoạt động năm 2025
Ngày 26/12/2025, tại phường Quy Nhơn, Hội nghị Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai (Liên hiệp hội) lần thứ III đã diễn ra với sự tham dự của đại diện lãnh đạo Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, các ủy viên Ban Chấp hành, đại diện các đơn vị thành viên Liên hiệp hội.
Vĩnh Long: Tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành tổng kết hoạt động năm 2025 và phương hướng nhiệm vụ năm 2026
Sáng ngày 26/12, tại Hội trường Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị phường Phước Hậu, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Vĩnh Long (Liên hiệp hội) tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành năm 2025. Hội nghị do Ban Thường vụ Liên hiệp hội tỉnh chủ trì, với sự tham dự của các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành và đại diện lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan.
Thanh Hóa: Tổng kết Hội thi Sáng tạo kỹ thuật cấp tỉnh lần thứ 14 (2024 - 2025)
Sáng ngày 25/12/2025, Ban Tổ chức Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Thanh Hóa (Hội thi) tổ chức Lễ tổng kết và trao giải thưởng Hội thi lần thứ 14 (2024 - 2025). Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Phạm Ngọc Linh đã tham dự, phát biểu chúc mừng Ban Tổ chức Hội thi và các tập thể, cá nhân đạt giải tại buổi lễ.
Đắk Lắk: TS. Phan Xuân Lĩnh được bầu làm Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Ngày 25/12/2025, Ban Chấp hành Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức Hội nghị về thực hiện quy trình công tác cán bộ. Tại Hội nghị, với 100% số phiếu nhất trí, Ban Chấp hành đã bầu TS. Phan Xuân Lĩnh tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Đắk Lắk khóa I, nhiệm kỳ 2025 - 2030.
Khối Khoa học xã hội tổng kết công tác năm 2025
Sáng 23/12, tại Hà Nội, Khối Khoa học xã hội (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 và đề ra nhiệm vụ thực hiện năm 2026. Đến dự có đại diện Thường trực Hội đồng Thi đua- Khen thưởng Liên hiệp Hội Việt Nam; lãnh đạo của các đơn vị thành viện thuộc Khối Khoa học xã hội.
Ông Bùi Trung Kiên được tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030
Chiều ngày 24/12, TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), đã tới dự và phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hưng Yên (Liên hiệp Hội tỉnh Hưng Yên) lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030.
Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể Trung ương lần thứ I: Thống nhất trong đa dạng
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh MTTQ, các đoàn thể TƯ lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030 không chỉ là một dấu mốc về mặt tổ chức, mà còn mang ý nghĩa lịch sử, mở ra chặng đường phát triển mới cho công tác Đoàn và phong trào thanh niên trong toàn khối. Đại hội thể hiện sâu sắc sự "thống nhất trong đa dạng" - đa dạng về hình thái các tổ chức đoàn trực thuộc và thống nhất về mục tiêu hành động.