Luật khoa học và công nghệ cần quan tâm đến "hoạt động KH&CN" trong sản xuất
“Hoạt động KH&CN” là một đối tượng điều chỉnh quan trọng và chủ yếu trong Luật KH&CN (sau đây gọi tắt là Luật). Hoạt động này bao gồm cả hoạt động (nghiên cứu) khoa học và hoạt động (quản lý) công nghệ trong sản xuất.
“Hoạt động khoa học” và “hoạt động công nghệ” là hai hoạt động có sự khác biệt cơ bản. Sự khác biệt giữa hai loại hoạt động này trước hết là ở thiết chế tài chính, thể hiện ở hai điểm sau:
Thứ nhất,nguồn vốn cho nghiên cứu khoa học là nguồn vốn “cho không, biếu không”, bất kể đó là lấy từ nguồn ngân sách nhà nước dành cho KH&CN, hay nguồn vốn dành cho hoạt động R&D của xí nghiệp.
Thứ hai, về nguyên tắc, các nước không đánh thuế các nguồn vốn dành cho nghiên cứu, bất kể đó là nghiên cứu trong các nhà trường, hay là nguồn vốn để nghiên cứucông nghệ mới trong xí nghiệp. Xin nhấn mạnh: Đây là vốn dành cho nghiên cứu và thực nghiệm công nghệ mới (tiếng Anh là R&D, tức research và experimental development), chứ không phải nguồn vốn dành cho việc mở rộng những công nghệ đã có sẵn trong sản xuất (diffusion, tức extensive development of technology) hoặc nâng cấp công nghệ (upgrading, tức intensive development of technology) trong các xí nghiệp công nghiệp.
Như vậy, việc xác định đúng đối tượng điều chỉnh “hoạt động khoa học” và “hoạt động công nghệ” có một ý nghĩa rất thiết thực trong Luật.
Định nghĩa “hoạt động KH&CN” trong Luật
Điều 2, Khoản 3 quy định: “Hoạt động KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN”;
Điều 2, Khoản 4 quy định : “Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng”;
Điều 2, Khoản 5 quy định: “Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm”;
Điều 2, Khoản 6 quy định: “Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới”;
Điều 2, Khoản 7 quy định: “Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống”.
Ngoài các khái niệm được định nghĩa trên đây, còn một số khái niệm khác chưa được đề cập, chẳng hạn, “hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN”(trong Điều 2, Khoản 3) không có điều khoản nào giải thích rõ thêm trong Luật. Hơn nữa, trong các điều khoản về tổ chức quy định trong Điều 9, chúng ta cũng không thấy một điều khoản nào có quan hệ tới các hoạt động này.
Tóm lại, rà lại toàn bộ văn bản Luật, mặc dù khái niệm “sản xuất” được nhắc đi nhắc lại tới 23 lần, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng, toàn bộ các quy định trong Luật chỉ mới bàn đến việc tạo ra và khảo nghiệm các công nghệ được tạo ra trong khu vực R&D , “trước khi đưa vào sản xuất và đời sống”.Còn lại tất cả những gì thuộc về hoạt động công nghệ trong sản xuất đều chưa được một lần xem xét. Đây có lẽ là một khoảng trống rất quan trọng cần được làm rõ trong quá trình thảo luận sửa đổi, bổ sung Luật KH&CN của nước ta.
Vấn đề gì về công nghệ cần quan tâm cho sản xuất?
Cách đây ít năm, tôi được một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng cử làm đặc phái viên tới một số xí nghiệp của một vài thành phố lớn để khảo sát về tình hình sản xuất công nghiệp. Tại một xí nghiệp sản xuất chân vịt tàu thủy, tôi đã đưa ra 4 câu hỏi để khảo sát hoạt động quản lý công nghệ của xí nghiệp.
Hỏi: Xí nghiệp có bộ phận kiểm tra độ đồng đều của vật liệu đúc?
Đáp: Chúng tôi nhờ một đơn vị của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng của Bộ KH&CN.
Hỏi: Xí nghiệp có phương tiện kiểm tra sức bền vật liệu của sản phẩm đúc?
Đáp: Không. Chúng tôi nhờ Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Hỏi: Xí nghiệp có kiểm tra độ cân của chân vịt?
Đáp: Chúng tôi có những công nhân bậc cao, rất giỏi trong lĩnh vực này.
Hỏi: Xí nghiệp có kiểm tra các thông số thủy lực học của chân vịt?
Đáp: Anh nói gì cơ?
Lần đó, tôi được các sở công nghiệp và KH&CN của các thành phố này tổ chức đi khảo sát gần 30 xí nghiệp công nghiệp có quy mô khác nhau thuộc nhiều lĩnh vực công nghiệp. Nhận xét chung của tôi là, hoạt động quản lý công nghệ còn xa mới đạt được yêu cầu của các xí nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế thị trường: Thiếu rất nhiều loại labo phân tích các thông số kỹ thuật của sản xuất và sản phẩm; hầu như không xí nghiệp nào có xưởng pilot; càng không có các bộ phận R&D để nghiên cứu đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm.
Trong lúc đó, hàng loạt xí nghiệp vẫn còn duy trì phong trào thi đua: “Mỗi công nhân một sáng kiến, mỗi kỹ sư một đề tài nghiên cứu”được phát động từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Phong trào này có thể rất hay và rất đúng, nếu như trong xí nghiệp có các cơ sở riêng để thực nghiệmcác sáng kiến của công nhân và các ý tưởng công nghệ của kỹ sư, không cho phép họ được đụng chạm đến dây chuyền công nghệ của sản xuất. Kinh nghiệm đã cho thấy, phát huy sáng kiến và thực hiện nghiên cứu trực tiếp trên dây chuyền công nghệ của sản xuất là phá hoại sự ổn định của sản xuất, là điều cấm kỵ trong quản lý công nghệ. Thực tế các phong trào “sáng kiến” ở nước ta đã được trả giá bằng rất nhiều bài học về thất bại trong công nghệ, chẳng hạn, Nhà máy cơ khí N. ở thành phố H. có sáng kiến cải tiến lò cao, thí nghiệm ngay trong quá trình đúc gang vốn đã rất ổn định. Kết quả là gang không tháo ra được, tắc lò và xí nghiệp phải hủy bỏ luôn cái lò cao ấy. Đó là chưa nói đến một việc khác: Người cán bộ kỹ thuật đưa ra ý kiến phản đối sáng kiến này đã bị khai trừ Đảng và buộc thôi việc. Sau khi sáng kiến thất bại, cũng không ai bàn đến việc phục hồi cho người cán bộ kỹ thuật này. Cuối cùng, anh ta phải ra một bến xe làm nghề chữa xe đạp. Sự kiện này đã qua vài thập niên, nhưng các phong trào sáng kiến tùy tiện trong xí nghiệp vẫn còn tồn tại (đương nhiên, câu chuyện này chỉ tồn tại ở các xí nghiệp thuộc khu vực nhà nước). Nếu chúng ta còn duy trì các xí nghiệp thuộc khu vực nhà nước, thì hiện tượng này cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật.
Vậy những nội dung nào cần được bổ sung trong Luật?
Trong cuốn “Technology Policy Formulation and Planning: A Reference Manual”,do Nawaz Sharif* chủ biên, xuất bản năm 1986, nhóm tác giả đã phát triển tư tưởng về “vòng đời của công nghệ”, bao gồm 4 giai đoạn:
1. Đổi mới công nghệ: Công nghệ được tạo ra và thử nghiệm trong R&D;
2. Tổ chức công nghệ: Công nghệ được thương mại hóa và công nghiệp hóa;
3. Mở rộng công nghệ: Công nghệ được truyền bá rộng rãi trong sản xuất;
4. Thay thế công nghệ: Sự tiêu vong của công nghệ cũ và sự xuất hiện công nghệ mới (được hình thành từ các ý tưởng đổi mới công nghệ).
Rõ ràng, chúng ta có thể thấy, mọi giai đoạn của vòng đời công nghệ đều gắn bó chặt chẽ với sản xuất, bắt đầu từ việc “đổi mới công nghệ” trong sản xuất(sau khi công nghệ được sáng tạo và khảo nghiệm trong giai đoạn R&D); sau đó là “tổ chức công nghệ” và “mở rộng công nghệ” trong sản xuất, cho đến giai đoạn cuối cùng là “thay thế công nghệ” của sản xuất. Để bảo đảm quản lý nghiêm ngặt công nghệ trong cả 4 giai đoạn này, chúng tôi cho rằng cần bổ sung vào Luật những nội dung sau:
• Giám sát nghiêm khắc toàn bộ quá trình công nghệ của sản xuất. Trong những năm qua, cuộc vận động quản lý theo ISO 9000 là một bước khởi đầu tốt đẹp. Ngoài những quy định riêng về áp dụng ISO 9000, tiếng nói trong một đạo luật về KH&CN là hoàn toàn cần thiết.
• Quy định về tổ chức và hoạt động phân tích, kiểm nghiệm, kiểm định và nhất là hoạt động R&D trong sản xuất. Nhìn chung, hoạt động này còn yếu vì hầu như chưa được coi trọng và cũng chưa có những ràng buộc pháp lý hữu hiệu ở nước ta.
• Quy định về các biện pháp khuyến khích và những chế tài ràng buộc đối với hoạt động phát triển công nghệtrong sản xuất, bao gồm mở rộng công nghệ và nâng cấp công nghệ, loại trừ các phong trào “sáng kiến” tùy tiện, phương hại đến sự ổn định của dây chuyền công nghệ. Cần lưu ý thêm rằng, khái niệm “phát triển công nghệ” được đề cập trong Luật chỉ mới là hoạt động D trong quá trình nghiên cứu sáng tạo ra công nghệ, chưa có một nội dung nào về phát triển công nghệ của sản xuất (diffusion of technology và upgrading of technology)
Kết luận
Quản lý công nghệ, bộ phận không thể tách rời của quản lý KH&CN đang ngày càng trở thành một vấn đề bức xúc của sản xuất. Luật KH&CN còn thiếu một mảng rất quan trọng này.
Để phát huy vai trò của KH&CN trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi đất nước đã đứng vào cộng đồng các quốc gia trong WTO, Luật KH&CN rất cần thiết phải vươn tới khu vực này.
* Sharif nguyên là Giám đốc Trung tâm Chuyển giao Công nghệ châu Á và Thái Bình Dương (APCTT), nay là chuyên viên của ESCAP. Cuốn sách đã được Trung tâm Dự báo và Chiến lược Khoa học và Kỹ thuật (nay là Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN) lược dịch.
Nguồn: Tạp chí Hoạt động khoa học, 8 - 2008








