Lựa chọn tôm sú giống và cách thả nuôi tôm
Chọn tôm sú giống để thả nuôi
Có ao nuôi được thiết kế tốt, có nguồn nước ao nuôi đạt chất lượng nhưng nếu con tôm sú giống không bảo đảm thì vụ nuôi tôm đó cũng gặp nhiều khó khăn như gia tăng chi phí quản lý ao, có tỷ lệ hao hụt đầu con lớn hoặc thậm chí nguy cơ thiệt hại 100% ao tôm rất dễ xảy ra. Vì vậy, vấn đề lựa chọn tôm sú giống rất quan trọng.
Một số trại nuôi tôm thành công thường xuyên mua tôm giống ở những trại sản xuất tôm giống đã có uy tín lâu nay. Nếu người nuôi tôm chưa có quan hệ với những trại tôm giống có uy tín thì họ có thể sử dụng một số kinh nghiệm kiểm tra các thông số có liên quan đến năng suất tôm trong ao nuôi. Ví dụ chọn tôm từ những tôm bố mẹ đẻ lứa đầu hoặc lứa thứ hai, tôm con ở cùng một lô có cùng kích cỡ tương đương nhau, chúng có những biểu hiện bơi khoẻ mạnh trong ao nuôi. Các thông số khác cũng có những ảnh hưởng đến chất lượng tôm giống như có hiện tượng đóng rong bên ngoài, các nguyên nhân gây bệnh, tỷ lệ chết, tốc độ phát triển, hình dạng bên ngoài, tỷ lệ giữa ống ruột và cơ, màu sắc và thói quen của tôm giống.
Hiện tượng đóng rong, bị bám dính bởi các động vật nguyên sinh Protazoa hoặc với các vi khuẩn cho thấy chất lượng tôm giống không tốt. Sự hiện diện của các vi sinh vật này cũng bị ảnh hưởng trong giai đoạn lột xác, vì vậy nếu một số lớn tôm giống có hiện tượng đóng rong bên ngoài là dấu hiệu cho thấy chất lượng nguồn nước không tốt và tôm giống không thể lột xác ổn định. Điều quan trọng khác là không chỉ kiểm tra các con tôm giống yếu mà cần kiểm tra cả hoạt động bơi lội của chúng. Nhà nuôi tôm có thể tìm được nhiều tôm bị đóng rong không khoẻ mạnh ở đáy bồn chứa. Những con tôm giống trong những điều kiện tốt, cũng có thể có một phần bị đóng rong và chúng ta có thể đưa chúng vào nuôi sau khi đã điều trị. Ở nhiều nơi, tôm giống cũng được kiểm tra xem có sự hiện diện những thể bắt màu của virus hay không. Mặc dù ảnh hưởng của bệnh MBV chưa đáng kể nhưng với một lượng lớn tôm giống có mang các thể bắt màu này sẽ có biểu hiện không tốt. Một số công trình nghiên cứu cho thấy một lượng lớn của những thể bắt màu này cho thấy tôm giống đã bị stress trong các bể ương ấu trùng. Trong thực tế rất khó có được tôm giống không bị nhiễm MBV.
Nhà nuôi tôm có thể kiểm tra tôm giống 2 lần ở trại sản xuất tôm, vào thời điểm 7 ngày và 1 ngày trước khi mua tôm về thả nuôi. Điều này cho phép xác định số tôm có bị nhiễm MBV, tỷ lệ chết và tốc độ lớn của tôm. Các lô tôm giống có tỷ lệ phát triển kém, tỷ lệ chết cao và số tôm nhiễm MBV tăng thì không nên mua nuôi. Một cách để kiểm tra tỷ lệ tôm giống chết một cách dễ dàng nhất là đến trại sản xuất thật sớm hoặc vào buổi chiều, khi các bồn chứa tôm giống được làm sạch và thay nước.
Một cách để kiểm tra khác là xem các phần phụ và đầu kiếm của tôm giống phải có hình dáng bình thường, không bị mòn cụt hoặc biến đổi thành màu đen. Nếu đầu kiếm có 4-6 ngạnh tức là tôm đang ở độ tuổi PL 15-20 (PL = post larvae) (tức là tôm được 15-20 ngày sau giai đoạn ấu trùng). Các cơ phần bụng phải sáng trong và có tỷ lệ phần ống ruột với cơ bụng đốt thứ sáu nằm trong khoảng 1:4. Có thể hiểu là độ dày của ống ruột bằng khoảng 1/4 độ dày của phần cơ. Ống ruột cũng phải chứa đầy thức ăn. Và phần cơ cũng phải nở đầy trong phần vỏ, trừ trường hợp khi tôm mới lột xác.
Một số khuynh hướng về thói quen của tôm giống cũng chỉ ra được những con tôm giống tốt. Đó là tôm giống tốt khi bơi hướng thẳng về phía trước và đáp ứng nhanh với các loại tác nhân kích thích, ví dụ như cho nước chảy vừo bồn chứa và chúng cố gắng bơi ngược lại với dòng nước xoáy. Khi dòng nước xoáy giảm xuống, chúng có khuynh hướng bám vào thành chậu hơn là bị quét vào vị trí trung tâm chậu. Ngược lại những con tôm yếu có thể bị chết, không phản ứng hoặc bơi với hình dạng lưng cong.
Sau khi được lựa chọn, tôm giống sẽ được đóng gói để vận chuyển. Phương pháp vận chuyển thông thường là cho tôm giống vào các túi nhựa với một ít nước và bơm oxy rồi cột chặt miệng túi lại. Lượng nước trong túi nhựa không chứa quá 1/3 túi. Mật độ đóng gói với tôm giống PL 15 là 1.000-2.000 con/lít và với PL 20 là 500-1.000 con/lít. Khi có thể thì nên vận chuyển tôm giống vào lúc sáng sớm hoặc khi trời chiều mát để tránh nhiệt độ tăng lên quá cao sẽ ảnh hưởng đến tôm giống. Hoặc có thể vận chuyển tôm giống trong những xe có bạt che. Thời gian vận chuyển tôm giống không nên vượt quá 6 tiếng. Hoặc đựng các túi nhựa trong các thùng xốp và để ở nơi có nhiệt độ 20-25 độ C. Cũng có thể chèn một ít bao đá nhỏ xung quanh các hộp vận chuyển này. Khi vận chuyển tôm giống với thời gian dài từ 3 tiếng đến 6 tiếng cần cho ấu trùng Artemia vào trong túi nhựa để tôm có thức ăn, phòng ngừa hiện tượng tôm bị đói sẽ ăn thịt lẫn nhau.
Kỹ thuật thả nuôi tôm
Định hướng của việc thả nuôi tôm là đưa vào ao một số lượng tôm giống phù hợp, có chất lượng tốt nhằm bảo đảm đạt được sản lượng tôm thương phẩm cao và ổn định nhất. Do đó, người nuôi tôm cần tính toán mật độ thả nuôi.
Khi mới bắt đầu nên thả với mật độ thấp để thăm dò khả năng sản xuất của hệ thống ao tôm. Ví dụ một trại tôm mới xây dựng có mực nước ao nuôi sâu 1,5 m thì không nên nuôi với mật độ vượt quá 30 con/m 2. Mật độ nuôi có thể tăng từ từ trong các vụ nuôi kế tiếp để tạo nên các vụ nuôi thành công. Nếu tỷ lệ sống và sức phát triển của tôm trong các vụ nuôi kế tiếp không có hiệu quả thì người nuôi cần xem xét nguyên nhân tại đâu để khắc phục.
Về mật độ thả nuôi thích hợp cho một ao nuôi phụ thuộc vào một số yếu tố như sau: môi trường tự nhiên của khu vực, số lượng trại nuôi tôm hiện có trong vùng, cách thiết kế và cấu trúc của ao, tuỳ theo mùa vụ nuôi, theo kích cỡ tôm mong muốn khi thu hoạch và kinh nghiệm của người quản lý ao. Các yếu tố này có liên quan mật thiết với nhau, ví dụ một ao được thiết kế tốt có thể bù đắp một phần cho môi trường nuôi không tố hoặc kích cỡ tôm mong muốn khi thu hoạch có thể bị giới hạn bởi sự xuống cấp của môi trường. Nếu chất lượng nguồn nước tại chỗ xấu hoặc có biến động thì chỉ ở những ao nuôi có kỹ thuật quản lý thật tốt hoặc nuôi với mật độ thấp sẽ tạo ra lợi nhuận. Nếu ao và các trang thiết bị được sử dụng có thể duy trì một vùng đáy sạch cho tôm kiếm thức ăn thì có thể thả nuôi tôm với mật độ cao hơn. Độ sâu của ao cũng có ảnh hưởng đến mật độ thả nuôi tôm. Như đã nói, trong một ao nuôi được quản lý tốt với chất lượng nước ổn định, với ao có độ sâu 1,2m có thể nuôi mật độ 25-30 con/m 2và có thể thả nuôi khoảng 40-50 con/m 2đối với những ao sau từ 1,5 m trở lên. Điều quan trọng nhất cần lưu ý là các chỉ tiêu được giới thiệu nuôi ở mật độ cao này chỉ thích hợp ở những ao được quản lý thật tốt.
Mật độ thả nuôi tôm cũng có thể ảnh hưởng theo các vụ thả nuôi theo mùa thời tiết và chất lượng nguồn nước. Ví dụ, trong những thời gian nguồn nước độ mặn và nhiệt độ cao thì mật độ thả nuôi cũng phải giảm bớt và có thể thả nuôi tăng trở lại khi độ mặn của nước thích hợp với sự phát triển của tôm là 10-30 phần ngàn. Kích cỡ tôm cần đạt, như đã nói ở trên, bị phụ thuộc vào một số yếu tố nhưng nói chung nuôi tôm ở mật độ thấp nếu muốn tôm có kích cỡ càng lớn. Trong nhiều trường hợp, lợi nhuận có thể đạt nhiều hơn khi thả nuôi mật độ thấp và tôm phát triển, đạt kích cỡ lớn, có giá trị thương mại cao hơn.
Nguồn: Khoa học phổ thông, số 726, 14-20/7/2004