Lợi thế xây dựng kinh tế thủy sản thành thương hiệu của thành phố Cần Thơ(*)
Cần Thơ có những vùng đất ngập nước quy mô lớn, đa dạng đã tạo nên một vùng sinh thái đặc thù, hiếm thấy, rất thuận lợi cho phát triển sản xuất thủy sản hàng hóa tập trung. Song nói đến nuôi trồng thủy sản Cần Thơ, ưu thế vẫn là nuôi nước ngọt(cá tra, cá ba sa). Ngoài ra, thành phố còn có tiềm năng môi trường nuôi các loài nhuyễn thể, các loài thủy sản khác như cá lóc, cá rô, cá da trơn…Trên thực tế, nuôi trồng thủy sản ở Cần Thơ đã trở thành một nghề truyền thống và không ngừng phát triển. Trong đó chủ yếu là diện tích mặt nước có khả năng nuôi thủy sản nước ngọt và phân bố ở các quận, huyện: Cái Răng, Phong Điền, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Lốt, Thới Lai, Cờ Đỏ và Vĩnh Thạnh.
Kết quả trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản:
Trong những năm qua, cơ cấu sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp từng bước chuyển dịch theo hướng tập trung chuyên canh, luân canh phù hợp với từng địa bàn, với các mô hình sản xuất có hiệu quả như lúa – cá, lúa – màu, kinh tế vườn kết hợp du lịch, nuôi thủy sản chuyên canh, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả gắn với nhu cầu thị trường. Trong nội bộ ngành, giá trị sản xuất thủy sản có tốc độ tăng nhanh, năm 2004 chiếm tỷ trọng 16,68%, đến năm 2008 tăng lên khoảng 34,89%, năm 2009 là 43,53%; kim ngạch xuất khẩu nông - thủy sản tăng từ 220,8 triệu USD năm 2004 lên 736,5 triệu USD năm 2008 và năm 2009 là 978,8 triệu USD(tăng bình quân 32,9%/năm) 1.
Nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh do chủ động được nguồn con giống có chất lượng thông qua xã hội hóa sản xuất giống thủy sản, đã góp phần chuyển dịch giống con nuôi. Năm 2009, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 12.941 ha tăng 2,57% so với năm 2005, (trong đó diện tích nuôi cá 12.849 ha); sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2008 đạt gần 192 ngàn tấn, tăng gấp 3,08 lần so năm 2005. Đặc biệt trong năm 2007, diện tích nuôi thủy sản tăng nhanh và đạt trên 13.449 ngàn ha(không kể diện tích sản xuất giống). Trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng nhanh qua các năm là do yếu tố tăng diện tích nuôi cá, cụ thể diện tích nuôi cá qua các năm như sau: năm 2005 là 12.404 ha, năm 2009 là 12.941 ha, cho thấy diện tích ao nuôi chỉ tăng 537 ha nhưng sản lượng tăng từ 90.237 tấn năm 2005, lên 197.878 tấn năm 2009, tăng trên 100.000 tấn 2.
Ngoài ra, đã hình thành nhiều vùng nuôi thủy sản an toàn, chất lượng theo tiêu chuẩn Quốc tế SQF 1000 CM, bước đầu tiên thực hiện đã chặt chẽ với các doanh nghiệp trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thông qua việc ký kết hợp đồng bao tiêu.
Bảng 1: Hiện trạng ngành thủy sản Cần Thơ giai đoạn 2004 – 20093
Chỉ tiêu | ĐVT | TH 2003 | TH 2004 | TH 2005 | TH 2006 | TH 2007 | TH 2008 | TH 2009 |
1. Giá trị sản xuất | ||||||||
- Giá cố định 1994 | Tỷ đồng | 351,77 | 580.78 | 775,13 | 988,08 | 1.317,30 | 1.556,12 | 1.631,9 |
2. Diện tích nuôi trông thủy sản | Ha | 10.044 | 11.029 | 12.548 | 13.664 | 14.025 | 12.725 | 12.941 |
3. Sản lượng thủy sản | Tấn | 37.854 | 650757 | 90.237 | 116524 | 157.080 | 187.864 | 197.878 |
- Sản lượng nuôi trồng | Tấn | 30.856 | 59.087 | 83.783 | 110.214 | 150.857 | 181.743 | 191.878 |
- Sản lượng khai thác hải sản | Tấn | 6.998 | 6.670 | 6.454 | 6.310 | 6.223 | 6.121 | 6.053 |
Kết quả trong các lĩnh vực khai thác:
Nếu sản lượng nuôi trồng tăng nhanh qua các năm, như năm 2000 là 9.112 tấn thì đến năm 2005 là 83.783 tấn và đến năm 2009 là 197.871 tấn, thì trong lĩnh vự khai thác tự nhiên lại có xu hướng tương đối ổn định và giảm dần cụ thể như: năm 2000 là 6.576 tấn, năm 2005 là 6.454 tấn và đến năm 2009 còn 6.053 tấn 4. Điều này thể hiện rõ là Cần Thơ không có biển nên chỉ tập trung khai thác nguồn lợi thủy sản nước ngọt, nguồn lợi này là do thiên nhiên ưu đãi vì vậy cần phải có kế hoạch bảo vệ, nuôi dưỡng hệ sinh thái bền vững và tạo thế khai thác ổn định lâu dài. Chính vì vậy, những năm gần đây lãnh đạo thành phố chỉ đạo thực hiện các chính sách phát triển mạnh mẽ diện tích và số lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt trong đó tập trung cho nuôi cá da trơn, đồng thời phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến để thu hút các nguồn nguyên liệu từ các địa phương khác trong vùng, đáp ứng nhu cầu chế biến, gia công hàng xuất khẩu cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long(ĐBSCL).
Kết quả trong lĩnh vực chế biến:
Ngành chế biến của thủy sản Cần Thơ phát triển mạnh, sử dụng công nghệ khá tiên tiến, hiện đại, sản lượng tăng nhanh, đây được xem là ngành công nghiệp chủ lực của thành phố, thời gian qua đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển chung của ngành công nghiệp, bình quân hàng năm khoảng 35-40 % tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và trên 45% giá trị kim ngạch xuất khẩu của thành phố.
Theo khảo sát công nghiệp của sở Công Thương năm 2010, trên địa bàn thành phố hiện nay có 30 doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực chế biến thủy sản, tổng công suất ước đạt 450,000 tấn sản phẩm/ năm, bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế như công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, tổng vốn đầu tư ước khoảng 6000-6500 tỷ đồng, doanh nghiệp lớn nhất là 1.069 tỷ đồng và nhỏ nhất là 20 tỷ đồng. Trong số này, tập trung nhiều ở các vùng sản xuất nguyên liệu lớn: Cái Răng, Bình Thủy, Ô Môn, Thốt Nốt,…chiếm gần 25% số lượng nhà máy chế biến thủy sản toàn vùng ĐBSCL. Hàng năm, sản lượng thủy sản chế biến của thành phố chiếm trên 20% tổng sản lượng thủy sản chế biến của cả vùng 5.
Đối với vùng ĐBSCL thì các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và TP. Cần Thơ có thế mạnh về chế biến cá tra xuất khẩu, trong đó thành phố Cần Thơ và tỉnh An Giang, là hai địa phương có khối lượng cá tra và cá ba sa rất lớn và tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây. Ta có thể thấy qua kết quả chế biến thủy sản đông lạnh qua các năm ở Cần Thơ như sau:
Bảng 2:Kết quả công nghiệp thủy sản Cần Thơ giai đoạn 2006-20106
Công nghiệp chế biến | ĐVN | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 |
Thủy sản đông lạnh | Tấn | 68.632 | 142.954 | 256.376 | 262.456 | 310.000 |
Với những lợi thế trên, nhiều năm nay, thủy sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển sản xuất nông nghiệp của Cần Thơ. Vì thế phát triển ngành thủy sản thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, có cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục giữ vữngngành kim ngạch xuất khẩu cao có tỷ trọng GDP đáng kể trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp là một định hướng lớn của TP. Cần Thơ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay.
1Nguồn số liệu: Niên giám thống kê thành phố Cần Thơ, Cục Thống kê Tp Cần Thơ
2Nguồn số liệu: Sách đã dẫn(sđd)
3Nguồn số liệu: Sđd
4Nguồn số liệu: Sđd
5,6 Nguồn số liệu: Sđd
(*) Tên bài do BBT đặt lại.








