Liên hiệp hội Việt Nam với trí thức
Hiện nay, Liên hiệp hội Việt Nam có 119 hội thành viên. Nếu tính cả các hội nhỏ thuộc Tổng hội thì Liên hiệp hội Việt Nam có tới 145 hội, chiếm 38% hội hoạt động trong phạm vi cả nước. Liên hiệp hội Việt Nam còn có khoảng 450 đơn vị KH&CN, hoạt động theo Nghị định 81-NĐ/CP, theo nguyên tắc tự chủ, tự trang trải kinh phí (thường gọi tắt là đơn vị 81), dưới dạng viện, trường, trung tâm, liên hiệp khoa học - sản xuất chiếm 1/3 đơn vị KH&CN trên toàn quốc. Liên hiệp hội Việt Nam đã tập hợp được khoảng 1/3 trí thức của cả nước, gồm trí thức hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, trí thức trẻ và trí thức về hưu. Hầu hết các trí thức đầu ngành đều tham gia hoạt động hội. Trong Liên hiệp hội Việt Nam còn có nhiều nhà quản lí cấp cao, sau khi nghỉ hưu đã tham gia công tác hội. Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên ngày càng phát huy thế mạnh của đội ngũ trí thức đóng góp cho xã hội, thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước trong cơ chế thị trường.
Trí thức đã và đang gia nhập Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên ngày càng đông. Tuy nhiên, hiện nay số lượng trí thức thực sự tham gia hoạt động hội vẫn còn ít. Điều đó do một nguyên nhân quan trọng là tính “hấp dẫn” của hội. Nói như vậy để chúng ta phải quan tâm tới lợi ích của người trí thức, của đội ngũ trí thức nhiều hơn, phải bàn tới việc Liên hiệp hội Việt Nam đến với trí thức chứ không phải trí thức đến với hội. Trong Điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam và của nhiều hội thành viên đã có nêu một nhiệm vụ quan trọng là “bảo vệ lợi ích chính đáng của trí thức”, nhưng chúng ta làm việc này chưa đáng là bao. Để trí thức tăng nhiệt huyết và tự nguyện tìm đến Liên hiệp hội Việt Namthì Liên hiệp hội Việt Nam phải thể hiện trách nhiệm bảo vệ lợi ích chính đáng của họ. Một lợi ích chính đáng quan trọng của trí thức là được tự do sáng tạo. Muốn sáng tạo thì người trí thức phải biết phê phán cái không còn phù hợp, biết đưa ra những cái mới, quy luật mới phù hợp thực tiễn. Xã hội lâu nay quen với nếp ca ngợi, gần đây đang chuyển dần với hoạt động phê phán. Tiếc rằng cơ chế, điều kiện bảo đảm cho hoạt động sáng tạo, khuyến khích sáng tạo còn thiếu, cần phải được xây dựng, nhất là đối với lĩnh vực khoa học xã hội.
Chúng ta bước sang giai đoạn mới trong công cuộc xây dựng đất nước, nhưng đất nước đang còn lúng túng trong việc tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ trí thức phát huy tốt khả năng sáng tạo. Điều đó bắt nguồn từ nhận thức của xã hội, của các nhà quản lí về vị trí, vai trò của trí thức. Gần đây chúng ta đã bắt đầu nói tới việc phát hiện người tài, trọng dụng người có tài, nhưng vẫn ở trong phạm vi chỉ đạo. Xã hội đang thiếu một cơ chế, chính sách đồng bộ để phát hiện đào tạo, sử dụng người có tài và cần phải tạo dựng nó. Để có một cơ chế, chính sách đồng thuận trong xã hội thì phải đổi mới nhận thức của xã hội về đội ngũ trí thức. Vậy cần phải đổi mới nhận thức ra sao?
Xưa kia ông cha ta đã tôn trọng hiền tài vì hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì trí thức KHCN không phân biệt người Việt ở trong nước hoặc ở nước ngoài cần được xem là lực lượng sản xuất hàng đầu, có vai trò quyết định. Thực tiễn đó đã được chứng minh ở nhiều nước vươn lên từ chưa phát triển tới phát triển. Nếu nhận thức được như vậy thì công tác trí thức trở thành nhiệm vụ chính trị quan trọng, có tầm chiến lượctrong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai. Và như vậy cần phải đổi mới công tác trí thức. Trí thức cần phải được tôn vinh xứng đáng (so với cầu thủ bóng đá, siêu sao, người mẫu?). Cần củng cố khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức cho vững chắc để bảo đảm hệ thống chính trị do Đảng ta lãnh đạo phát triển bền vững. Đội ngũ trí thức cần có vị thế thực sự trong đời sống chính trị của nước ta. Nói như vậy không có nghĩa chúng ta chỉ quan tâm tới cá nhân người trí thức là đủ, mà cái chính là phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Hoạt động tư vấn, phản biện đang quen dần ở xã hội nước ta hiện nay và đang trở thành một cửa, ngăn ngừa lãng phí, tiêu cực. Chúng ta cần sớm đưa hoạt động này vào cơ chế bắt buộc và điều đó sẽ huy động được trí tuệ của đội ngũ trí thức.
Công tác trí thức trong điều kiện cơ chế thị trường cần phải chú ý tới việc tạo được động lực cho đội ngũ trí thức, chứ không thể chỉ chú ý tới việc động viên suông. Như vậy phải đảm bảo sự công minh giữa quyền lợi và trách nhiệm của người trí thức, đảm bảo sự hài hoà và cân đối trong việc phân chia lợi ích giữa nhà đầu tư và người sáng tạo, đảm bảo sự đãi ngộ xứng đáng đối với trí thức có nhiều cống hiến...
Điều hoà lợi ích trong một xã hội phát triển là một bài toán phức tạp. Đối với nước ta, bài toán đó lại càng khó hơn vì thiếu kinh nghiệm, vì cơ chế thị trường định hướng XHCN là một vấn đề hoàn toàn mới, vì thiếu nguồn lực đảm bảo vì năng lực và trình độ của cán bộ quản lí còn hạn chế....
Đấy là những vấn đề lớn đối với công tác trí thức mà chúng ta cần phải tháo gỡ và đấy (theo tôi) cũng là một trách nhiệm nặng nề của Liên hiệp hội Việt Nam đối với trí thức. Đi vào chi tiết, có thể bàn luận một, hai việc cụ thể sau:
Ở nước phát triển, trí thức không phải là người giàu và đội ngũ trí thức không thuộc tầng lớp giàu có. Ở nước ta, trừ một số người, đại bộ phận trí thức đang thuộc lớp người trên nghèo (có người còn nói, trí thức nước ta là vô sản nhưng giàu trí tuệ). Nhiều trí thức không đủ tiền túi để tự nghiên cứu, mà phải dựa vào Nhà nước và các nguồn tài trợ khác. Và trí thức phải chạy vạy nguồn tài trợ cho nghiên cứu (kể cũng lắm gian nan, vất vả). Thật trớ trêu, người đã giàu, lại có cơ chế hỗ trợ để giàu thêm; người khó khăn, muốn tìm nơi nương tựa thì gặp nhiều trở ngại. Một trở ngại nhãn tiền là thủ tục hành chính cho việc nghiên cứu còn quan liêu, rườm rà và hậu quả là tạo nên sự nói dối. Vậy Liên hiệp hội Việt Nam có nên xông vào khai phá “rừng rậm” thủ tục hành chính để tạo một con đường thông thoáng cho nghiên cứu hay không? Làm được điều đó là một kỳ công, nhưng uy tín của Liên hiệp hội Việt Nam nhờ đó sẽ lớn, lòng tin của trí thức vào Liên hiệp hội Việt Nam càng tăng cao. Trước tình hình trí thức nước ta còn nghèo, còn thiếu quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học thì Liên hiệp hội Việt Nam có nên thành lập quỹ này không? Bây giờ bàn tới việc xây dựng Quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học của Liên hiệp hội Việt Nam chắc còn quá sớm, nhưng chắc sau này phải nên có. Nếu chúng ta có quỹ này thì đó là một “nam châm” gắn bó trí thức với Liên hiệp hội Việt Nam .
Liên hiệp hội Việt Nam đến với trí thức còn có thể thông qua con đường chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của họ. Bàn về vấn đề này chắc có nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng đã là tổ chức của trí thức thì cũng phải có trách nhiệm quan tâm tới cuộc sống của họ. Tuy vậy đó cũng là bài toán nan giải đối với Liên hiệp hội Việt Nam, vì tài chính và cơ sở vật chất của Liên hiệp hội Việt Nam đều rất hạn chế. Chắc rằng điều này phải đợi chính sách tổng thể của Đảng và Nhà nước đối với trí thức, trong đó có việc giao nhiệm vụ cho chính quyền các cấp và Liên hiệp hội Việt Nam .
Trên đây chỉ là một số điều làm suy nghĩ của tác giả đối với chủ đề Liên hiệp hội đến với trí thức.
Chỉ thị 45-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) đã khẳng định nhiệm vụ của Liên hiệp hội Việt Nam là tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức. Thời gian qua Liên hiệp hội Việt Namlớn mạnh do các hội thành viên tìm đến Liên hiệp hội Việt Nam vì tính chất chính trị của tổ chức này. Tới đây, Liên hiệp hội Việt Nam, các hội thành viên cần đẩy mạnh việc đến với trí thức để tìm cách tháo gỡ những khó khăn cho trí thức hoạt động, hướng tới chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ trí thức, bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ để Liên hiệp hội Việt Nam thực sự là tổ chức của chính họ. Chúng ta hướng tới điều Liên hiệp hội Việt Namcần đến với trí thức và trí thức tập hợp trong tổ chức của Liên hiệp hội Việt Nam
-----
* Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam







