Ký ức về cây cầu “tiến quân lịch sử” trên dòng Nậm Rốm
Sau một chặng dài “Đường ta rộng thênh thang ta bước”, Quốc lộ 6 trải dài trong sắc trắng hoa ban, đưa du khách về với với những ký ức hào hùng. Đây Cò Nòi, đây Pha Đin, Nà Tấu, Nà Nhạn... con đường kéo pháo như còn vọng về tiếng “hò dô” trầm hùng của chiến sĩ… Mảnh đất Điện Biên nay lại được dịp trải lòng mình với du khách, qua những hoạt động thiết thực ý nghĩa trên lĩnh vực đời sống văn hóa - xã hội.
Với khách du lịch là các cựu chiến binh Điện Biên Phủ, sau khi “gặp lại đồng đội cũ” tại Nghĩa trang A1, thăm lại Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ở Mường Phăng, Di tích hầm Đờ Cát-tơ-ri hay Di tích hận thù Noong Nhai, Sân bay Mường Thanh… thì hầu hết du khách đều trở lại thăm cây cầu “tiến quân lịch sử” – Cầu Mường Thanh, được bắc qua sông Nậm Rốm, ở địa điểm cách ngã 3 đường 279 khoảng 300m. Đây chính là một công trình quân sự do quân Pháp xây dựng nhằm phục vụ cho việc liên lạc và vận chuyển vũ khí đạn dược… từ Trung tâm tập đoàn cứ điểm (Hầm Đờ Cát) với các cụm cứ điểm trên dãy đồi phía Đông, Đông Bắc. Tuy nhiên quân Pháp không ngờ rằng, cây cầu này cũng chính là con đường dẫn đến sự “đại bại” sau này.
Trong đoàn Cựu chiến binh về thăm lại Điện Biên, ông Giáp Lê Thìn (sinh 1932), cựu chiến binh Điện Biên Phủ, hiện sinh sống ở thành phố Bắc Giang không giấu nổi xúc động khi trở lại thăm cây cầu Mường Thanh. Ông kể: “17 giờ 30 ngày 7/5/1954, tôi cùng đồng đội chạy từ đồi E qua cầu Mường Thanh xuống thì được chứng kiến Tướng Đờ Cát-tơ-ri và toàn thể Bộ tham mưu của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống. Gần 1 vạn tên xâm lược giơ cao cờ trắng xin hàng… Lúc bấy giờ tôi thấy bộ đội ta đang reo hò, thu vũ khí của địch… Đã 60 năm trôi qua, mảnh đất Điện Biên đã thay đổi rất nhiều, giàu đẹp hơn và văn minh hơn, tôi vô cùng tự hào vì đã cùng đồng đội góp sức vào sự thay đổi ấy. Nhất là khi được trở lại cây cầu Mường Thanh, những ký ức hào hùng lại hiện lên trong tôi mà có lẽ trong suốt cuộc đời này tôi không thể nào quên được…”
“Ước mơ hão huyền” giữa lòng chảo Mường Thanh
Ngày 20/11/1953, thực hiện kế hoạch Nava (Navare), “cha đẻ” của kế hoạch quân sự Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương đã cho 150 chuyến máy bay chở 4.000 quân nhảy dù xuống vùng lòng chảo Mường Thanh. Những ngày cuối tháng 11 năm đó, Báo chí Pháp ở các nước thuộc địa và chính quốc đều huyênh hoang về “Trận mưa dù xuống Điện Biên Phủ”, bản thân tướng Nava cũng đã tuyên bố rất... ngoa: “Tôi sẽ nắm quyền chủ động, tôi sẽ giữ vững quyền chủ động”. Thế rồi Nava cho xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương gồm 3 phân khu, 8 cụm và 49 cứ điểm. Mỗi cụm đều mang tên những thiếu nữ xinh đẹp của nước Pháp, mỗi cứ điểm đều có giao thông hào nối với hầm chỉ huy, hầm ngủ, hầm đạn. Hỏa lực yểm hộ có 28 khẩu pháo hạng nặng loại 155 mm và 105 mm. Tính bình quân mỗi cứ điểm được bố trí 4 đại liên, 45 tiểu liên, 9 trung liên, 9 súng phóng lựu đạn, 2 súng cối 60, 1 pháo không giật 57mm và ở các cứ điểm quan trọng được trang bị súng phun lửa và súng hồng ngoại tuyến để bắn ban đêm.
Tại thung lũng Mường Thanh, Quân đội viễn chinh Pháp cho xây dựng 2 sân bay dã chiến với 14 máy bay thường trực, 7 máy bay khu trục, 6 máy bay trinh thám, 1 máy bay lên thẳng và còn có 10 xe tăng loại 18 tấn, 120 xe vận tải. Số lượng quân Pháp đóng ở Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên và chúng huyênh hoang về hệ thống phòng ngự mạnh nhất. Ngay cả trong Đại chiến thế giới thứ 2, quân Pháp cũng chưa từng dựng lên “một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh như ở Điện Biên Phủ” và Điện Biên Phủ được coi là một pháo đài bất khả xâm phạm. Tướng Đờ Cát-tơ-ri đã cho binh lính Pháp rải truyền đơn khắp nơi thách thức quân Việt Minh tấn công.
Cây cầu dẫn đến “Kịch bản buồn” của Đờ Cát
Do địa hình Điện Biên Phủ lọt giữa một lòng chảo rộng, xung quanh là núi cao bao bọc ở trận địa trung tâm lại có dòng sông chảy qua chia cắt, nên việc giao thông liên lạc từ Sở chỉ huy trung tâm (Hầm Đờ Cát) với các cụm cứ điểm trên dãy đồi phía Đông, Đông Bắc gặp nhiều khó khăn. Giải quyết những khó khăn này, quân Pháp đã cho xây dựng cầu Mường Thanh, vắt ngang sông Nậm Rốm. Là cây cầu dã chiến bằng chất liệu sắt, làm sẵn và vận chuyển bằng máy bay từ “nước mẹ Đại Pháp” sang lắp ráp tại Điện Biên. Toàn bộ cây cầu dài 40 mét, rộng 5 mét, hai bên thành cầu là những thanh sắt chống đỡ giản đơn không có trục giữa, sàn cầu lát bằng gỗ, dưới là những thanh dầm cũng bằng sắt được liên kết với nhau rất chắc chắn, đảm bảo tải trọng cho phép từ 8 đến 15 tấn. Để bảo vệ cây cầu huyết mạch này, quân Pháp cho bố trí các cứ điểm 507, 508 và 509 bên đầu cầu phía Đông, còn đầu phía Tây, chúng bố trí 1 ổ đại liên 4 nòng án ngữ. Với cách bố trí lực lượng như vậy, Đờ Cát hy vọng sẽ giữ vững được cây cầu, đồng nghĩa với việc giữ vững được cửa ngõ tiếp viện cho các cụm cao điểm phía Đông, Đông Bắc tập đoàn cứ điểm.
Khi chiến sự chưa diễn ra, cầu Mường Thanh là đường vận chuyển nguyên vật liệu, đạn dược, dây thép gai phục vụ cho việc xây dựng các điểm phòng ngự ở phía Đông và phân khu phía Bắc của quân đội viễn chinh Pháp. Khi quân ta tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam, quân Pháp đã sử dụng cây cầu này cho xe cứu thương lên nhận tù binh ở Trung tâm đề kháng Him Lam và cũng từ đây xe tăng của Pháp đã xuất phát lên tăng cường cho cứ điểm A1 vào đêm 31/3/1954.
Trong đợt tổng công kích tấn công tiêu diệt toàn bộ các cao điểm phía Đông vào rạng sáng ngày 7/5/1954 quân ta đã tiêu diệt toàn bộ cứ điểm A1 bằng sức mạnh của “bộc phá ngàn cân”. Đến 14 giờ cùng ngày, Trung đoàn 209 đại đoàn 312 mở cuộc tấn công cứ điểm 507 ở đầu cầu Mường Thanh. Địch ở cứ điểm này kéo cờ trắng ra hàng. Đại đoàn 312 thừa thắng xông lên, tấn công và tiêu diệt tiếp 2 cứ điểm 508 và 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm. Từ hướng Đông trung đoàn 209 cùng với Trung đoàn 98, 174 áp sát vào khu trung tâm Mường Thanh. Ở phía Tây, trung đoàn 36 cũng tiến vào các cứ điểm cuối cùng che chắn cho sở chỉ huy; Trung đoàn 88 mở đường qua sân bay, tiến thẳng vào sào huyệt cuối cùng của Gônô. Quân ta đánh tới đâu, cờ trắng của địch xuất hiện tới đó, nhiều toán địch từ các cứ điểm, chiến hào lũ lượt kéo ra nộp vũ khí đầu hàng.
17 giờ 15 phút ngày 7/5/1954, cánh quân của đại đoàn 312 tiến sát vào sở chỉ huy của địch. Trung đội trưởng Chu Bá Thệ phát hiện trên hầm Đờ Cát có cờ trắng, đại đội truởng Tạ Quốc Luật dẫn đầu tổ xung kích tiến thẳng vào khu trung tâm, trên đường tiến công bị hỏa lực của trọng liên 4 nòng bảo vệ cầu Mường Thanh bắn ra chặn đường tiến công của quân ta. Các chiến sĩ đã không quản hy sinh, dũng cảm chiến đấu, nhanh chóng dập tắt hỏa điểm trọng liên 4 nòng của địch và vượt qua làn đạn dày đặc tiến lên. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng các chiến sĩ vượt qua cầu Mường Thanh tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, bắt sống tướng Đờ Cát và Bộ tham mưu của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Đúng 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954 lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng’ của quân ta đã tung bay trên nóc hầm tường Đờ Cát, kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ - Chiến thắng lớn nhất trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Một chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ diễn ra nhanh chóng như một “kịch bản buồn” đã định sẵn cho quân Pháp, nguyên nhân cũng một phần cũng tại cây cầu Mường Thanh.
Mãi là cây cầu “tiến quân lịch sử”
Là một trong những người trực tiếp được giao nhiệm vụ bắn chặn ở đầu cầu Mường Thanh, cựu chiến binh Nguyễn Hữu Chấp ở phường Him Lam, thành phố Điện Biên kể lại: “Quân Pháp đã làm một chiếc cầu phao gỗ để phòng khi ta bắn hỏng cầu Mường Thanh. Nhưng khi chiếc cầu phao bị quân ta phá hỏng trước thì cầu Mường Thanh trở thành cuống họng của chúng... Lúc bấy giờ, thiếu thốn đủ thứ, nhưng với tinh thần của người lính Cụ Hồ, tôi đã cùng đồng đội vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu quyết không để kẻ địch tràn sang… Hàng năm, cứ vào dịp kỷ niệm chiến thắng Điện Biện Phủ, anh em cựu chiến binh chúng tôi ở các tỉnh khác nhau lại tụ họp, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm, nhớ về một thời chiến đấu oanh liệt năm xưa ngay trên chính chiếc cầu lịch sử này…”