Kiểm soát xã hội đối với các chuẩn mực trong hoạt động khoa học
Trong các cộng đồng xã hội đang cùng chung sống trên hành tinh, cộng đồng khoa học có lẽ là một trong những cộng đồng có nhiều nét đặc thù nhất. Đó là một cộng đồng luôn hướng tới sự tìm tòi, khám phá bằng lao động trí tuệ, cũng sống bằng lao động trí tuệ và đóng góp cho nhân loại những sản phẩm tinh thần bất diệt của lao động trí tuệ. Có thể nói, cộng đồng khoa học là một cộng đồng elite của xã hội. Vì vậy, cộng đồng này luôn chiếm giữ những vị trí ưu ái của nhân loại. Họ được trân trọng, được tôn vinh.
Tuy nhiên, cũng chính vì vai trò của đặc biệt này mà cộng đồng khoa học luôn gặp nhiều bi kịch:
- Trước hết, những khám phá mới mẻ của họ luôn dẫn đến sự “phá cách” những chuẩn mực của xã hội, từ những chuẩn mực tư duy truyền thống, đến những phong tục, tập quán; từ những chuẩn mực pháp luật và đạo đức, đến những tín điều tôn giáo, và nhất là, những tư tưởng chính trị. Chính vì thế mà bên cạnh sự ưu ái của xã hội, họ luôn bị kỳ thị, thậm chí, chống đối bởi hàng loạt truyền thống xã hội, từ truyền thống văn hóa đến tôn giáo và chính trị.
- Thứ hai, trong nội bộ cộng đồng này cũng luôn có sự phân hóa với những động cơ thôi thúc, một số người có xu hướng vượt trội lên tầng trên của elite, kéo theo ý chí nỗ lực của toàn cộng đồng; còn một số người khác thăng tiến chậm trễ hơn; một số người khác nữa thì không theo được với dòng chảy chung, bị tụt xuống hàng dưới của cộng đồng, thậm chí, bị đẩy ra ngoài nhóm elite. Trong những người “lo” bị đẩy tụt xuống hàng dưới, thậm chí bị đẩy ra ngoài nhóm elite, có những người đã tìm cách gian lận hoặc ăn cắp công trình của người khác để “đánh bóng” cho mình, hoặc để níu kéo vị trí elite đang tụt dần vào trong quên lãng.
Lịch sử khoa học đã chứng tỏ, hai hiện tượng trên đây trong xã hội nào cũng có, chỉ khác nhau về mức độ nghiêm trọng: Ở mức độ nhẹ thì người ta dè bỉu, chê bai, định kiến; ở mức độ nặng hơn thì người ta phê phán, lên án, thậm chí đưa lên giàn thiêu như Giáo hội đã xử với Galileo; nặng hơn nữa thì người ta đàn áp, thậm chí bỏ tù, xử bắn cả một trường phái khoa học, gồm nhiều ngàn nhà sinh học thuộc trường phái Mendel-Morgan ở Liên Xô suốt hai thập niên 1930-1940.
Vì thế đã xuất hiện đòi hỏi phải đưa ra những chuẩn mực để vừa bảo vệ cộng đồng elite này, vừa tránh cho thành viên của cộng đồng này rơi vào những sai lệch chuẩn mực theo hướng tiêu cực. Những chuẩn mực này trước hết là cơ sở cho khung mẫu ứng xử chung của cộng đồng khoa học, nhưng cũng làm cơ sở cho việc hình thành những khung mẫu ứng xử của xã hội đối với cộng đồng khoa học.
Các chuẩn mực trong hoạt động khoa học
Ngoài những chuẩn mực chung mang tính toàn xã hội, cộng đồng những người làm khoa học cũng có những chuẩn mực riêng biệt.
Năm 1942, Robert K. Merton, một nhà xã hội học người Mỹ, đã khái quát hoá bốn chuẩn mực, sau này được bổ sung thành 5 chuẩn mực trong hoạt động khoa học như sau:
1) Tính cộng đồng: Tri thức khoa học trong thời đại chúng ta là một loại sản phẩm vừa mang tính cá nhân rất cao, song lại là sự kế thừa những nỗ lực của cả một tập thể. Vì vậy, nó phải được công bố, hoặc nói một cách hình ảnh, như cách nói của Zuckerman, đó là "biếu không" chúng cho các đồng nghiệp. Đó là biện pháp để làm cho mục tiêu của một nhóm trùng hợp với mục tiêu cá nhân; nghĩa là các nhà khoa học bị "bắt buộc" phải công bố công trình của họ.
2) Tính phổ biến. Đóng góp khoa học phải được phán xét theo những tiêu chuẩn khách quan. Các thuộc tính xã hội của những người có công đóng góp, bất kể họ là ai, bất kể thuộc chính kiến nào; thuộc sắc tộc hoặc tôn giáo nào; có xuất thân giai cấp hoặc giới tính như thế nào đều không quyết định sự phán xét khoa học của họ. Tính phổ biến đòi hỏi, chỉ những khám phá đã được kiểm chứng bởi các luận cứ khoa học, có thể lặp lại trong quan sát hoặc thực nghiệm, chứ không phải là những khám phá ngẫu nhiên, tuỳ hứng, mới được xem là một kết quả khoa học.
3) Tính không thiên kiến. Mọi kết luận trong quan sát hoặc thực nghiệm khoa học cần được kiềm chế những thiên vị cá nhân, bao hàm sự kiểm soát của thiết chế đối với những động cơ làm khoa học nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức.
4) Tính độc đáo (originality). Khoa học phải có tính mới, không thể giẫm chân trên những đường mòn.
5) Tính hoài nghi (skepticism). Là "sứ mạng cả về mặt phương pháp luận và về mặt thiết chế". Nó yêu cầu những người làm khoa học không được đưa ra kết luận vội vã, nó đòi hỏi phải "trì hoãn sự phán xét" cho đến khi có đầy đủ bằng chứng cần thiết. Chuẩn mực này đòi hỏi người làm khoa học phải biết đặt câu hỏi ngược lại với những lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng sơ bộ bằng quan sát hoặc thực nghiệm.
Các chuẩn mực trên đây đã được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng nghiên cứu nói chung, và giới nghiên cứu xã hội học khoa học nói riêng.
Vài dạng lệch chuẩn điển hình
Điều được các nhà xã hội học khoa học quan tâm và thảo luận khá sôi động là hai dạng lệch chuẩn điển hình: gian lận và ăn cắp. Mặc dầu có nhiều quan điểm và mức độ phán xét khác nhau về nguyên nhân và hậu quả của các dạng lệch chuẩn này, nhưng các tác giả đều thống nhất quan điểm cho rằng, cả gian lận và ăn cắp đều là những hành vi lệch chuẩn không thể lượng thứ.
Chẳng hạn, nhà miễn dịch học Peter Medawat (1976) xem các hành vi "ăn cắp và gian lận là những thứ đáng ghê tởm nhất"; nhà sinh học phân tử Salvadore Luria thì xem đó là "sự bê bối" mang "ý nghĩa xúc phạm" (1975); còn nhà y học Robert Peteredorf thì cho đó là điều "chướng tai gai mắt" nhất (1986); đối với nhà sinh hoá Daniel Koshland thì đó là điều "không thể tha thứ được" (1987). Trên quan điểm của xã hội học khoa học, Zuckerman cho rằng, "gian lận và ăn cắp đã huỷ hoại niềm tin vào cộng đồng khoa học. Đó là niềm tin vốn rất chính đáng rằng, những gì mà các nhà khoa học nói, là chân lý tin cậy nhất".
Vậy các dạng lệch chuẩn gian lận và ăn cắp cần được hiểu như thế nào?
Gian lận trong hoạt động khoa học là sự cố ý lừa dối, thể hiện dưới ba hình thức:
(1) Giả mạo, tức là bịa đặt dữ kiện để đạt được một thành tích khoa học, nhằm giành lợi thế trong cộng đồng khoa học. Hậu quả hoàn toàn có thể đưa ra một bức tranh sai lệch về đối tượng nghiên cứu. Thật ra, người có hành vi vi phạm trong trường hợp này, không nhằm vào mục đích đưa ra bức tranh sai lệch, mà nhằm mục đích chủ yếu là giành lợi thế và những phần thưởng cho cá nhân. Với sự giả mạo này, đương sự đã làm cho cộng đồng hiểu và đánh giá sai về đương sự, rằng anh ta đã có một thành tích khoa học. Hậu quả là cộng đồng được nhận những thông tin sai lệch. Ví dụ, có một nhà địa chất, muốn chứng minh một quan điểm địa chất sai lệch của mình, đã cố ý ném một số cổ sinh vật hoá thạch vào khu vực được chọn làm đối tượng nghiên cứu, rồi đương sự đã đưa ra một báo cáo sai lệch về khu vực này.
(2) Xuyên tạc, tức làm biến dạng dữ kiện, để mô tả bức tranh khoa học theo ý muốn chủ quan của mình. Xét cả về hai phương diện, hậu quả xã hội và thực thể tri thức khoa học, loại hành vi lệch chuẩn này có thể đánh giá mức độ nghiêm trọng không kém gì hành vi giả mạo. Nếu như sự giả mạo thể hiện thái độ vô trách nhiệm trước thực thể tri thức khoa học, thì hành vi xuyên tạc thể hiện thái độ cố ý làm sai lệch khách thể theo một ý đồ không lành mạnh từ phía chủ quan của đương sự.
(3) Nhào nặn, tức "mông má" dữ kiện, nhằm vào việc tô hồng hoặc bôi đen sự kiện theo ý muốn chủ quan, thậm chí làm đảo ngược bức tranh khoa học về đối tượng nghiên cứu. Nhào nặn dữ kiện cũng dẫn tới sự huỷ hoại thực thể tri thức khoa học theo một định hướng chủ quan của đương sự.
Ăn cắp là một hành vi mang động cơ chiếm đoạt cái mà họ không có, với tham vọng được cộng đồng thừa nhận một nấc thang khoa học mà họ hoàn toàn không xứng đáng.
Tuy cộng đồng nghiên cứu, và đặc biệt là các nhà xã hội học khoa học, thống nhất nhận thức rằng, cả hai hành vi lệch chuẩn - gian lận và ăn cắp, đều là những lệch chuẩn không thể lượng thứ, nhưng họ cũng chỉ ra rằng, ăn cắp tuy là một hành vi phi đạo đức; nhưng nó chỉ gây ra sự bất công, chứ không làm biến dạng và huỷ hoại thực thể tri thức khoa học. Còn hành vi gian lận, tuy không ăn cắp của ai, nhưng nó lại dẫn đến một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, là cung cấp một bức tranh sai lệch về thực thể nhận thức.
Cộng đồng khoa học cho rằng, cả hai tội này đều phải bị trừng phạt hết sức nghiêm khắc, theo Zuckerman, "cần phải trừng phạt nghiêm khắc đến mức độ phải dẫn đến phá hoại toàn bộ sự nghiệp của đương sự."
Xử lý các hành vi lệch chuẩn
Hiện tượng lệch chuẩn “đạo đức” đang là vấn đề nhức nhối trong khoa học ở nước ta. Việc đưa ra các chế tài nhằm hạn chế lệch chuẩn đang là một công việc đầy nan giải, nhất là, khi một số người vi phạm các chuẩn mực lại có tước vị khoa học cao, có chức vụ quan trọng trong các cơ quan khoa học, cơ quan quản lý khoa học và cả trong các cơ quan tham mưu của các cấp Ủy Đảng về khoa học và giáo dục.
Điều này có thể có cả hai nguyên nhân: thiếu các thiết chế xã hội để kiểm soát các hành vi lệch chuẩn và, mặt bằng văn hoá còn thấp trong cộng đồng khoa học nước ta. Một số bạn đồng nghiệp nghiên cứu chưa xem việc tôn trọng các chuẩn mực là sự thể hiện tính tự trọng và đạo đức khoa học.
Từ kinh nghiệm các nước có nền khoa học phát triển, từ các điều khoản đã được quy định trong Luật Dân sự của Việt Nam, chúng tôi thiết nghĩ để xử lý các hành vi lệch chuẩn, có thể nhấn mạnh các biện pháp sau đây:
Về mặt pháp lý, cần có những đạo luật quy định mọi kết quả nghiên cứu đều được quyền công bố hoặc không công bố dưới mọi hình thức thích hợp, như công bố thông qua các xuất bản phẩm công khai hoặc không công khai (trong trường hợp có quan hệ tới bí mật cạnh tranh trong kinh doanh, hoặc có quan hệ tới quốc phòng và an ninh quốc gia) và có những Quy định chặt chẽ về trích dẫn khoa học.
Quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phải nói rằng, ở nước ta đã có nhiều bước phát triển trong việc nghiên cứu, công bố và thi hành các luật và văn bản dưới luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, việc thi hành luật chưa được thực hiện đúng với yêu cầu cần thiết cho sự phát triển khoa học, đặc biệt là việc xử lý những hiện tượng vi phạm tác quyền trong khoa học.
Lệch chuẩn trong hoạt động khoa học
Có nhiều kiểu sai lệch chuẩn mực (gọi tắt là lệch chuẩn). Người làm khoa học có thể lệch chuẩn do vô tình hoặc cố ý, cũng có thể do trình độ của phương tiện và phương pháp nghiên cứu. Có bốn loại lệch chuẩn sau:
1) Lệch chuẩn nhận thức. Có hai ý nghĩa: (1) Loại lệch chuẩn phát sinh thiếu kiến thức, thiếu thông tin; (2) Loại lệch chuẩn xuất phát từ những nhận thức hoặc hành động khác với nhận thức đương thời của khoa học, chẳng hạn, mô hình vũ trụ của Copernicus khác với mô hình vũ trụ của Ptolêmê đã được giới khoa học công nhận hồi trước thế kỷ XV.
2) Lệch chuẩn kỹ thuật. Là loại lệch chuẩn do phương pháp tiếp cận, trình độ phân tích, trình độ của phương tiện, thiết bị kỹ thuật. Dạng lệch chuẩn này cũng có hai loại: (1) Người nghiên cứu sai phạm ngẫu nhiên về phương pháp; (2) Người nghiên cứu gặp hạn chế về phương tiện và phương pháp..
3) Lệch chuẩn xã hội. Là loại lệch chuẩn do: (1) Hạn chế lịch sử trong điều kiện xã hội mà nhà nghiên cứu hoạt động. Hạn chế lịch sử dẫn đến những thiết chế khiến cho những kết luận khoa học bị sai lệch theo định kiến xã hội. Chẳng hạn, những nghiên cứu về tổ chức hệ thống kinh tế nông nghiệp trong thời kỳ kinh tế chỉ huy không được vượt khỏi quan niệm về tổ chức sản xuất nông nghiệp của giai đoạn lịch sử đó, ví dụ, không "được phép" trao đổi sản phẩm trên thị trường; (2) Lệch chuẩn xã hội cũng có thể do sức ép của các quyền lực xã hội đưa lại. Chẳng hạn, vũ trụ quan của giáo hội không cho phép truyền bá quan điểm nhật tâm của Copernicus.
4) Lệch chuẩn đạo đức. Là loại lệch chuẩn cố ý, với những toan tính tranh giành tối đa những lợi thế không chính đáng trước đồng nghiệp.
Mỗi kết luận sai lệch về khoa học có thể xuất hiện chỉ do một dạng lệch chuẩn, song có những kết luận sai lệch xuất hiện là do một số dạng lệch chuẩn, chẳng hạn, vừa lệch chuẩn kỹ thuật, vừa lệch chuẩn nhận thức, và có cả lệch chuẩn đạo đức và lệch chuẩn xã hội.
Lệch chuẩn nào cũng có thể dẫn đến những thiệt hại ở các mức độ rất khác nhau, và do vậy, dạng lệch chuẩn nào cũng có mức độ có thể lượng thứ hoặc không thể lượng thứ. Chẳng hạn, chúng ta quay trở lại mô hình của Ptôlêmê về vũ trụ, với Trái Đất là trung tâm, còn mặt trời và các vì sao khác quay xung quanh Trái Đất. Sau này, khi mô hình Copernicus được thừa nhận, thì mô hình Ptôlêmê bị xem là một dạng lệch chuẩn nhận thức, đồng thời cũng có thể xem là một dạng lệch chuẩn kỹ thuật. Trường hợp này, có thể xem là loại lệch chuẩn có thể lượng thứ. Nhưng sau này, đến lượt Giáo hội chống Copernicus, rồi chống Galileo, thì từ lệch chuẩn nhận thức và lệch chuẩn kỹ thuật của Ptôlêmê, đã chuyển sang lệch chuẩn xã hội của Giáo hội. Rõ ràng, lệch chuẩn nhận thức và lệch chuẩn kỹ thuật là có thể lượng thứ, còn lệch chuẩn xã hội của Giáo hội, dẫn đến đàn áp tư tưởng và đàn áp thể xác nhà khoa học lại trở nên một hành vi lệch chuẩn không thể lượng thứ.
----------------
1 Năm 1972, tức 352 năm sau vụ án Gallileo, Giáo hoàng John Paul II đã cho xem xét lại vụ án này. Năm 1992, Giáo hội chính thức kết luận tính chất sai lầm của vụ án.








