Kịch bản biến đổi khí hậu đối với khu vực Tây Nguyên
1. Giới thiệu chung
Việt Nam nói chung và khu vực Tây Nguyên nói riêng là một trong những vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu (BĐKH). BĐKH là sự biến động trạng thái trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu vực theo thời gian từ vài thập kỷ đến hàng triệu năm. Những biến đổi này được gây ra do quá trình động lực của trái đất, bức xạ mặt trời, và gần đây có thêm hoạt động của con người. BĐKH trong thời gian thế kỷ 20 đến nay được gây ra chủ yếu do con người, do vậy thuật ngữ BĐKH (hoặc còn được gọi là sự ấm lên toàn cầu - global warming) được coi là đồng nghĩa với BĐKH hiện nay.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy việc phát xả khí nhà kính (chủ yếu là CO2 và Metan CH4) là nguyên nhân hàng đầu của BĐKH, đặc biệt kể từ 1950 khi thế giới đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và tiêu dùng, liên quan với điều đó là sự tăng cường sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, sản xuất xi măng, phá rừng và gia tăng chăn nuôi đại gia súc (phát xả nhiều phân gia súc tạo ra nguồn tăng Metan), khai hoang các vùng đất ngập nước chứa than bùn..
Khu vực Tây Nguyên cũng không tránh khỏi sự đe dọa của BĐKH. Vì vậy những dự báo tác động của BĐKH là việc làm bức xúc. Mặc dù vậy, những dự báo này chưa thể có độ chính xác cao mà chỉ mang tính nhận diện vấn đề.
2. Kịch bản BĐKH ở Việt Nam .
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nội tháng 2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 1. Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990)
Năm | Nhiệt độ tăng thêm( OC) | Mực nước biển tăng thêm (cm) |
2010 | 0,3 - 0,5 | 9 |
2050 | 1,1 - 1,8 | 33 |
2100 | 1,5 - 2,5 | 45 |
Bảng 2. Kịch bản BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm OC so với năm 1990)
Năm | Tây Bắc | Đông Bắc | Đồng bằng BB | Bắc Trung Bộ | NamTrung Bộ | Tây nguyên | NamBộ |
2050 | 1,41 | 1,66 | 1,44 | 1,68 | 1,13 | 1,01 | 1,21 |
2100 | 3,49 | 4,38 | 3,71 | 3,88 | 2,77 | 2,39 | 2,80 |
Bảng 3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990 (cm).
Kịch bản / năm | 2050 | 2100 | |
Cao | A1F1 | 13,7 | 39,7 |
A2 | 12,5 | 33,1 | |
Trung bình | A1B | 13,3 | 31,5 |
B2 | 12,8 | 28,8 | |
Thấp | A1T | 12,7 | 27,9 |
B1 | 13,4 | 26,9 | |
(Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu. Tổng quan về các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu)
Tính trung bình thì đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có khả năng tăng thêm 2,8 0C, mực nước biển dâng cao thêm 37cm chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương. Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cũng dự báo rằng cuối thế kỷ 21 mực nước biển có thể tăng thêm tối đa 81 cm. Tuy nhiên các nhà khoa học Anh cho rằng con số đó chưa phản ánh đúng, nước biển cuối thế kỷ 21 có thể tăng thêm đến 163 cm - tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC.
Xu thế chung của BĐKH ở Việt Nam :
Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam
Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa
Đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ có thể tăng thêm từ 4,0 đến 4,5 OC theo kịch bản cao nhất và 2,0 đến 2,2 OC theo kịch bản thấp nhất
Biên độ dâng cao mực nước biển ở nước ta là khá lớn theo tất cả các kịch bản, măc dù vậy vẫn chỉ là tương đương hoặc thấp hơn chút ít so với dự báo của IPCC năm 2007.
- BĐKH kéo theo hiện tượng El Nino, làm giảm đến 20 - 25% lượng mưa ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên, gây ra hạn hán không chỉ phổ biến và kéo dài mà thậm chí còn gây khô hạn thời đoạn ngay trong thời gian El Nino. Tác động này ở Nam Trung Bộ lớn hơn Bắc Trung Bộ, Bắc Tây Nguyên lớn hơn Nam Tây Nguyên.
Những nhận định trên đây là cơ sở để nhận diện một số tác động của BĐKH đối với khu vực Tây Nguyên.
Biểu hiện của BĐKH đối với khu vực Tây Nguyên:
Trên cơ sở phân tích chuỗi số liệu mưa, nhiệt độ và bốc hơi trong 30 năm qua, chúng tôi nhận thấy:
- Nhiệt độ: Trong 30 năm qua (1980 – 2009 ) nhiệt độ trung bình năm ở khu vực Tây Nguyên tăng lên khoảng từ 0,5 OC đến 0,7 OC. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ các vùng khí hậu phía bắc tăng nhanh hơn các vùng khí hậu phía nam. Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ gần đây cao hơn trung bình năm của thập kỷ trước đó. Ví dụ, nhiệt độ trung bình năm thập kỷ 2000 -2009 ở bắc Tây Nguyên đều cao hơn thập kỷ là 1990 – 1999.
- Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình nhiều năm trong những thập kỷ vừa qua không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa năm giảm ở các khu vực khí hậu phía bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía nam. Tính trung bình toàn khu vực, lượng mưa trong 30 năm qua đã giảm khoảng 2%.
Khô hạn và sự thiếu hụt nguồn nước sẽ làm năng suất nông nghiệp giảm sút. Nhiều loại dịch bệnh cây trồng của vùng khí hậu nóng sẽ có khả năng xâm lấn vào; các giống cây trồng ưa nước sẽ không cho năng suất và bị các loài ưa khô hạn thay thế, dẫn đến khủng hoảng các hệ sinh thái nông nghiệp trong khu vực. Xu thế này tất yếu dẫn đến việc nông dân lạm dụng phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, làm cho đất bị suy thoái và chất lượng nông sản không cao
Thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức và không thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Thiếu nước sinh hoạt dẫn đến nhiều loại bệnh mới có khả năng phát triển.
Kết luận
Phần lớn các địa phương ở Việt Nam nói chung và Tây Nguyên nói riêng chưa nhận diện đầy đủ mối đe doạ của biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu chưa thực sự được tính toán và lồng ghép vào các quy hoạch phát triển của tỉnh cũng như của các ngành, các địa phương có khả năng chịu ảnh hưởng nặng nề. Những ngành nhạy cảm và có nguy cơ chịu thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu như nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ điện, đô thị chưa tính kỹ tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Những tác động tiêu cực cấp 2 như nghèo đói gia tăng, tị nạn môi trường trên diện rộng, xung đột tranh chấp tài nguyên và đất sống, xung đột sinh thái cũng chưa được nghiên cứu dự báo.
Đối với Tây Nguyên trong thời gian qua tác động của các hoạt động kinh tế do con người đã có ảnh hưởng rất lớn đối với khí hậu địa phương như độ phủ rừng giảm đi rất nhiều do thủy điện, khai thác gỗ, làm đường, trồng trọt, v.v...
Hậu quả của biến đổi khí hậu là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững của khu vực. Vì thế việc cần làm sớm là nghiên cứu xác định tác động của BĐKH và điều chỉnh lại quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, biến thách thức của BĐKH thành cơ hội mới cho phát triển. Biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội cho kinh tế phát triển nếu có quy hoạch đúng đắn.








