Khuyến công Quốc gia: Chương trình thiếu đồng bộ
Khó khăn chồng chất
Chính thức đi vào hoạt động đã gần 3 năm nay nhưng công tác khuyến công dường như vẫn còn khá mới mẻ đối với bà con nông dân. Từ bộ máy quản lý, quy mô tổ chức đến kinh phí hoạt động... đều chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Để đạt mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, văn minh vào năm 2020 chúng ta còn quá nhiều việc phải làm.
Trông người mà ngẫm đến ta...
So với các nước trong khu vực, công tác khuyến công ở nước ta triển khai muộn lại bị “thờ ơ”! Hoạt động chỉ bó hẹp ở một số địa bàn, chính sách tín dụng ngân hàng chưa đồng bộ, sự liên kết giữa các ban ngành, doanh nghiệp yếu, trình độ dân trí khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế... Những điều này khiến tiềm năng của các địa phương không được phát huy, không đáp ứng được nhu cầu thực tế, lãng phí nguồn lực.
Trong khi đó, Thái Lan đã thiết lập hệ thống khuyến công cách đây hàng chục năm. Công nghiệp nông thôn của Thái Lan có tốc độ tăng trưởng nhanh và khẳng định được vai trò chủ chốt trong việc phát triển kinh tế – xã hội. Họ không chỉ chú trọng phát triển công nghiệp nông thôn (CNNT), hợp tác xã công nghiệp mà còn đầu tư cho khối doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, đơn vị và tư nhân có liên quan tới việc xúc tiến thương mại và phát triển công nghiệp. Theo đó, nước này thành lập đơn vị chuyên trách có quy mô khá hoành tráng là Cục Khuyến công. Dưới Cục Khuyến công có 8 phòng ban chức năng và 11 trung tâm khuyến công (TTKC) địa phương quy mô vùng... Mô hình này đã được các nước châu Âu áp dụng. Cục Khuyến công Thái Lan có trách nhiệm triển khai nội dung đề án khuyến công, khuyến khích sự phục hồi và phát triển của ít nhất 2.000 ngành nghề công nghiệp vừa và nhỏ. Những hoạt động dịch vụ khuyến công có thu phát triển do có đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản. Số lượng cán bộ bình quân 43 người /TTKC, có đội ngũ chân rết, cộng tác viên tới tận xã, phường, thôn bản.
Còn ở ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã đề ra chủ trương phát triển công nghiệp ở khu vực nông thôn, theo đó phải "phát triển mạnh các ngành nghề, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn”. Nhưng phải đến năm 2004, chủ trương này mới đi vào cuộc sống thông qua Nghị định 134/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Một thực tế khá bức xúc của ngành khuyến công hiện nay là đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu. Năm 2005, bình quân số cán bộ là 6, 4 người /TTKC, năm 2006 là 9, 4 người /TTKC. Ngay cả Cục Công nghiệp địa phương (CNĐP - Bộ Công nghiệp) – cơ quan" đầu não” về khuyến công cũng chỉ có 2 người chuyên trách về khuyến công, còn lại là kiêm nhiệm. Một số TTKC thiếu cán bộ, trang thiết bị, phụ cấp cho khuyến công viên cơ sở thấp (150.000 đồng /người /tháng). Ở nhiều địa phương, nguồn kinh phí phân bổ không hợp lý và tương xứng với năng lực cán bộ. Đơn cử như TTKC Đà Nẵng, năm 2006 thành phố có 10 cán bộ khuyến công, trong khi đó kinh phí địa phương cấp để thực hiện chỉ có 110 triệu đồng, con số quá nhỏ so với khối lượng công việc mà TTKC này phải thực hiện. Trái ngược hoàn toàn, Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp (TTKC&TVPTCN) Hải Dương, được tỉnh “ưu ái” giao cho 1, 4 tỷ đồng nhưng chỉ được biên chế 4 người. Với số người đó, chỉ xây dựng dự án, chọn địa điểm triển khai mô hình, lập quyết toán, tổ chức lớp đào tạo... cũng đã hết thời gian.
Hiện nay, nước ta vẫn chưa có trường học đào tạo chuyên ngành khuyến công, do vậy trình độ nghiệp vụ của nhiều cán bộ hạn chế cũng là điều cần thông cảm! Đó là chưa kể đa phần cán bộ khuyến nông ở các trung tâm khuyến nông tỉnh, huyện kiêm luôn cả công tác... khuyến công! Cả nước mới có Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Tây... thực hiện tốt mạng lưới khuyến công viên cơ sở, trung bình 18 người /TTKC.
Không chỉ thiếu và yếu về con người, cơ sở vật chất phục vụ cho khuyến công cũng là vấn đề nan giải. Hiện mới có 9/40 TTKC có xe ô tô, còn trụ sở làm việc đa phần “ở” nhờ Sở Công nghiệp. ông Đoàn Duy Hà, Phó giám đốc Sở Công nghiệp Quảng Ninh, cho biết: “Những hạn chế về cơ sở vật chất, chất lượng nguồn nhân lực đang là thực trạng của khuyến công cả nước. TTKC tỉnh đã vậy, đối với khuyến công viên cơ sở thì đúng là phải thực sự tâm huyết mới trụ được với nghề”.
Tốc độ tăng trưởng kém bền vững
Có thể nói, Nghị định 134/2004/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích phát triển CNNT đã thực sự phát huy hiệu quả và nhanh chóng được triển khai rộng rãi trên phạm vi cả nước. Chỉ một thời gian ngắn (2004 - 2007), đã có 62/64 tỉnh thành lập TTKC hoặc TTKC &TVPTCN, chỉ còn 2 tỉnh chưa đi vào “quỹ đạo” là Ninh Thuận, Thừa Thiên – Huế. Nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ cho hoạt động khuyến công cũng tăng lên hàng năm (năm 2007 là 92, 9 tỷ đồng, gấp 2 lần so với năm 2006). Năm 2006, tại 61 tỉnh, thành phố có triển khai hoạt động khuyến công, giá trị sản xuất công nghiệp của khối công nghiệp dân doanh tăng 27,4%, cao hơn so với mức bình quân sản xuất công nghiệp cả nước (24,8%). Riêng 29 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 227.534, 5 tỷ đồng, tăng 19,2% cùng kỳ năm 2005, chiếm 36% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc. Một số tỉnh, thành phố đạt giá trị sản xuất công nghiệp trên 10.000 tỷ đồng như Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Tây...
|
Theo ông Nguyễn Đình Hoàng Long, Phó cục trưởng Cục CNĐP, CNNT không chỉ trực tiếp góp phần phát triển ngành công nghiệp nói chung mà còn tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”. Từ đó kéo theo các loại hình dịch vụ phát triển, tận dụng được tiềm năng của đất nước; giảm bớt chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị; góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, tăng thêm lượng hàng hoá và gia tăng tốc độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, phát triển CNNT chưa bền vững, hoạt động khuyến công chưa được đánh giá đúng vai trò và quan tâm thích đáng.
Thống kê của Bộ Công nghiệp cho thấy, từ năm 2000 đến năm 2005, CNNT tuy đạt tốc độ tăng trưởng khá nhưng vẫn ở quy mô nhỏ, đầu tư tài sản cố định thấp; phát triển lệch ngành nghề; thiếu vốn và khả năng tiếp cận vốn hạn chế; công nghệ lạc hậu; năng suất thấp, khả năng cạnh tranh kém... Đặc biệt, do mức thu nhập ở nông thôn thấp nên sức mua trì trệ, dẫn đến hàng hoá khu vực này không có thị trường để phát triển. Lao động nông thôn chiếm 75% lao động toàn xã hội nhưng chỉ tạo ra 20,8% giá trị GDP toàn ngành công nghiệp. Thời gian nông nhàn chiếm 21%/năm, xấp xỉ 8 triệu lao động thất nghiệp. Khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng tăng, năm 1996 là 2, 71 lần, năm 2001 là 4, 45 lần, năm 2005 là 5 lần. Hiện, giá trị sản xuất CNNT chỉ chiếm 22,35% toàn ngành, trong đó tập trung chủ yếu ở các nhóm ngành công nghiệp chế biến nông – lâm – thuỷ sản, sản xuất sản phẩm sử dụng nguyên liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động...








