Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 23/11/2006 00:08 (GMT+7)

Khu công nghiệp, khu chế xuất - Thành tựu và triển vọng phát triển

1. Về số lượng KCN và vốn đầu tư cơ sở hạ tầng KCN

Số lượng các KCN được thành lập tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một lĩnh vực đầu tư hiệu quả. Trong 3 năm đầu, từ 1991-1993, cả nước chỉ có 2 KCN được thành lập là KCX Tân Thuận và KCX Linh Trung 1 (thành phố Hồ Chí Minh), 2 năm 1994-1995 có thêm 5 KCN được thành lập. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 có quy định về việc khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX, việc “thí điểm” thành lập các KCN từ 1992-1995 có thể nói là đã kết thúc, từ năm 1996 số lượng các KCN được tăng lên đáng kể, riêng năm 1996 đã có 13 KCN được thành lập, cao gấp đôi so với giai đoạn trước. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lý KCN, KCX và KCNC ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời và hướng dẫn hoạt động của các KCN, KCX, tạo khung pháp lý thống nhất cho việc thành lập và hoạt động của các KCN, vì thế đến năm 1997 đã có 45 KCN, gấp 3,5 lần so với năm 1996. Những năm sau đó, quy mô các KCN tăng tương đối đều đặn hàng năm với tốc độ khoảng 20%/năm. Các KCN được thành lập tăng dần cùng với sự gia tăng vốn đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, đến nay 124 KCN đã ra đời, phân bố rộng khắp trên 45 tỉnh, thành phố.

2. Về tình hình thu hút đầu tư

Các KCN ở Việt Nam đang là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, tạo nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Số lượng các dự án đầu tư và vốn đầu tư trong và ngoài nước vào KCN tăng qua các năm thể hiện sự quan tâm của các nhà đầu tư về một địa bàn đầu tư có nhiều ưu đãi và thuận lợi.

Nếu như đến 1995, chỉ có chưa đến 200 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN với số vốn đầu tư đăng ký chưa đến 1.500 triệu đô và 190 tỷ đồng thì đến cuối năm 2004 các KCN đã thu hút được trên 3.500 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn gần 15 tỷ USD và 90.000 tỷ đồng (gồm khoảng 1.700 dự án có vốn đầu tư nước ngoài - 14,67 tỷ USD và 1.800 dự án trong nước - gần 90.000 tỷ đồng), gấp hơn 17 lần về số dự án và 13 lần về số vốn đầu tư so với năm 1995. Trong số 3.500 dự án này, hơn 2.000 dự án đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện gần 7 tỷ USD và khoảng 50.000 nghìn tỷ đồng.

Trong những năm đầu mới thành lập KCN (1992-1998), các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu tư vào các KCN, KCX theo Luật Đầu tư nước ngoài, vì vậy, số dự án đầu tư nước ngoài cùng với số vốn đầu tư ở giai đoạn này tăng với tốc độ cao và số dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn nhiều so với số dự án đầu tư trong nước, trong giai đoạn từ 1995-1998, số dự án đầu tư nước ngoài (luỹ kế) tăng bình quân hơn 40%/năm, số vốn đầu tư đăng ký (lũy kế) tăng bình quân 60%/năm, số lượng các dự án có vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn từ 3-4 lần so với số dự án trong nước. Đồng thời, do tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính tại châu Á, số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài trong những năm sau tăng với tốc độ chậm hơn, năm 1998-1999 số dự án tăng 20%, số vốn chỉ tăng 8% và năm 1999-2000 số dự án tăng hơn 30% và số vốn tăng 40%.

Từ năm 1998 đến nay, số dự án đầu tư nước ngoài tăng bình quân 25% năm. Đến năm 2004, cả nước có trên 1700 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cao hơn 16% so với năm 2003.

Năm 1998, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành cùng với các Nghị định quy định chi tiết thi hành có những ưu đãi và khuyến khích đối với các dự án trong nước đầu tư vào KCN. Do vậy, số dự án trong nước vào KCN từ năm 1998 tăng đáng kể (tính luỹ kế), năm 1998-1999 tăng 84% từ 132 dự án lên 244 dự án, giai đoạn 1999-2000 tăng 93% từ 244 dự án lên 472 dự án. Các năm sau tăng đều đặn bình quân khoảng 35%. Cuối năm 2004, số dự án trong nước đạt trên 1.800 dự án tăng 46% so với năm 2003. Về số vốn đầu tư, giai đoạn 1995-1998, vốn đầu tư của khu vực trong nước vào KCN tăng bình quân mỗi năm khoảng 15% (tính luỹ kế), sau năm 1998, vốn đầu tư tăng với tốc độ cao hơn, đặc biệt các năm 1999 và 2000 vốn đầu tư tăng đột biến, hơn 20 lần so với năm trước do dự án Nhà máy điện Phú Mỹ I được triển khai tại KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa - Vũng Tàu). 2 năm gần đây, số dự án trong nước có tốc độ tăng khá nhưng vốn đầu tư mỗi dự án tương đối thấp dẫn đến tốc độ tăng vốn đầu tư khá thấp, chỉ đạt khoảng 2%.

Những năm gần đây, số lượng các dự án trong nước tăng với tốc độ cao hơn so với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời cùng với các Nghị định hướng dẫn đã dần đưa các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp của khu vực trong nước và ngoài nước về cùng một mặt bằng, vì vậy những năm tới dự đoán số dự án trong nước vào KCN sẽ vượt số dự án có vốn đầu tư nước ngoài, những năm tới số dự án trong nước dự đoán cao hơn so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

3. Về tình hình sản xuất kinh doanh

KCN đã và đang góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Giai đoạn 1995-1998, các khu công nghiệp sau khi hoàn tất việc xây dựng cơ bản đã đi vào hoạt động và thu hút đầu tư, các chỉ tiêu về giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong KCN đều tăng năm sau cao hơn năm trước. Giai đoạn 1998-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có giảm sút, do đó ảnh hưởng tới tình hình hoạt động chung của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là tình hình xuất khẩu. Giá trị sản xuất công nghiệp 1998-1999 chỉ tăng 6,9%, xuất khẩu 11,5% và nộp ngân sách 23%.

Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới và khu vực, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN trở lại với tốc độ tăng trưởng cao, trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả trong nước và nước ngoài) ước đạt khoảng 44 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, giá trị xuất khẩu đạt trên 21 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm), giá trị nhập khẩu đạt khoảng 27 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm.

KCN góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu lao động. Các KCN đã tạo ra một số lượng lớn việc làm, nâng cao trình độ tay nghề và tương ứng với nó là thu nhập của người lao động, góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế và xã hội. Đến nay, các KCN đã tạo việc làm cho trên 0,7 triệu lao động trực tiếp tăng gấp 3 lần so với năm 2001, 14 lần so với năm 1995 và gần 2 triệu lao động gián tiếp.

Các doanh nghiệp KCN đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới trong nhiều ngành kinh tế then chốt đối với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, như ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, dệt may, công nghiệp thực phẩm (đây là các dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu cao); các dự án công nghiệp nặng chủ yếu tập trung trong lĩnh vực lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; sắt thép, cơ khí; các ngành công nghiệp kỹ thuật cao…

4. KCN đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và phát triển các ngành dịch vụ, thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn, là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ,các KCN được thành lập trong thời gian qua ngoài việc đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá tại các trung tâm công nghiệp lớn, đã bắt đầu có tác động lan toả tích cực trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.

5. KCN góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.Do tập trung các cơ sở sản xuất nên KCN có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. KCN cũng là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.

6. Những kết quả hoạt động của các KCN qua những con số thể hiện mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm xuất khẩu... của các KCN,đó là những kết quả đáng trân trọng trong khoảng thời gian phát triển 15 năm qua. Tuy nhiên còn có những kết quả khác mà từ trước đến nay ít được nêu ra là KCN còn mang lại kết quả gián tiếp mà không dễ dàng đong đếm được bằng những con số. Đó là việc tìm thấy lối ra, hướng đi của các địa phương nghèo, sản xuất nông nghiệp là chính nay chuyển sang CNH-HĐH; đó là việc đô thị hóa các vùng nông thôn lạc hậu, xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng...

7. Bên cạnh mô hình KCN, với việc thành lập các khu kinh tế, khu công nghệ cao(KKT Dung Quất - Quảng Ngãi, Chu Lai - Quảng Nam, Nhơn Hội - Bình Định, Khu khuyến khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây (Thừa Thiên-Huế), Khu kinh tế - thương mại đặc biệt Lao Bảo (Quảng Trị); KCNC TP Hồ Chí Minh và Hoà Lạc - Hà Nội) hứa hẹn sẽ đem lại hiệu quả thu hút đầu tư cao trong thời gian tới.

8. Về quy hoạch KCN

Theo Đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam thời kỳ 2005 - 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tờ trình số 3678/TTr-BKH ngày 02 tháng 6 năm 2005), từ năm 2005 đến 2010 dự kiến thành lập mới (có chọn lọc) trên cả nước 132 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 25.229ha. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có 24 KCN, vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ có 9 KCN và vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ có 34 KCN nằm trong danh mục quy hoạch đến 2010.

Tóm lại, các thành tựu đã đạt được trong gần 15 năm xây dựng và phát triển trước hết thể hiện chủ trương đúng đắn của việc phát triển mô hình KCN, KCX của Đảng và Nhà nước ta, sau nữa thể hiện vai trò không thể thiếu của KCN, KCX trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cuối cùng đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương mục tiêu khắc phục yếu kém đang tồn tại, nâng cao hơn nữa hiệu quả và vai trò của KCN trong thời gian tới.

8. Phương hướng phát triển KCN trong những năm tới

Một là,thấu suốt chủ trương, thống nhất nhận thức KCN là một bộ phận cấu thành của sự nghiệp CNH, HĐH.

Hai là,xây dựng và điều chỉnh quy hoạch theo hướng mở rộng lĩnh vực đầu tư, gắn chặt quy hoạch ngành và quy hoạch địa phương với quy hoạch vùng, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của KCN.

Ba là,hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, chính sách đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập theo hướng đối xử công bằng, thông thoáng và minh bạch.

Bốn là,tăng cường hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư cả nước nói chung và trong KCN nói riêng.

Năm là,đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư vào các KCN

Mô hình phát triển KCN là đúng đắn, đáp ứng việc phát triển công nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung theo quy hoạch, lâu dài và bền vững. KCN là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, hoạt động của các KCN, KCX Việt Nam sẽ phát triển lên tầm cao hơn trong thời gian tới.

Nguồn :   vnmanager.com.vn   (03/09/05 )

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.