Không thiếu tiền cho giáo dục
Một là, loại bỏ những chi tiêu không hợp lý, mà thông thường, những chi tiêu không hợp lý gắn với các hoạt động không hợp lý. Hai là, qua đó sẽ có tiền chi thực sự cho giáo viên để nâng cao chất lượng lao động của họ, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và cũng từ đó mới có thể giáo dục cho học sinh tính trung thực.
Rà soát lại thì sẽ thấy có nhiều điều bất hợp lý do bản thân ngành giáo dục làm. Đồng thời cũng có rất nhiều quy định phi lý của Bộ Tài chính. Điều rõ ràng nhất là quy định cho phép cho các đơn vị sự nghiệp có thu được sử dụng tiền thu ấy một phần để nâng cao thu nhập cho cán bộ - công chức (không vượt quá 2,5 lần lương tối thiểu). Đây là nguyên nhân “thúc” đơn vị đó tăng thu, phần tăng thu này, không biết bao nhiêu phần trăm thực sự cần thiết, còn bao nhiêu phần trăm để nâng thu nhập.
Trong tình hình hiện nay, trước mắt cần dứt khoát hoãn kế hoạch tăng học phí cho đến khi hệ thống quản lý tài chính ngành giáo dục minh bạch. Lâu dài, cần xác định rõ các nguyên tắc về công bằng, dân chủ trước khi giải quyết cụ thể.
. Phóng viên: Tức là tiền dành cho giáo dục chưa chắc đã thiếu mà thiếu do cách chi tiêu không hợp lý?
![]() |
. Tại thời điểm hiện nay, tạm chấp nhận rằng cơ chế tài chính là minh bạch thì việc tăng học phí có hợp lý hay không?
- Trước hết, cấp phổ cập giáo dục phải tuyệt đối miễn phí, tiến tới sách giáo khoa cho cấp học này cũng miễn phí, đồng phục, tiền xe cộ, bữa ăn trưa miễn phí. Học phí bậc học phổ thông dù tăng không cao nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn vì đại đa số người dân có thu nhập thấp. Còn ở bậc trên phổ cập, có thể thu học phí nhưng khi cuộc sống của đa số người dân còn quá nhiều mối lo thì cần tránh gây thêm tâm lý bất an do tăng học phí. Đồng thời, trường công lập phải có lộ trình giảm dần học phí, tiến tới học phí ở các trường công lập phù hợp khả năng chi trả của tuyệt đại đa số các gia đình, tức là phù hợp với mặt bằng thấp nhất.
Không nên chủ trương học phí ở trường công tùy thuộc vào khả năng chi trả của từng gia đình (ai giàu đóng nhiều, nghèo đóng ít hoặc được miễn). Mới nghe tưởng công bằng nhưng kết quả thực hiện sẽ trái ngược bởi 2 lý do. Thứ nhất, cơ chế này sẽ gây rối loạn, đặc biệt là ở nước ta, mức thu nhập của công dân mà để các trường hay địa phương xác định thì rất dễ bị lợi dụng, nhất là khi tham nhũng còn nặng. Hai là, công bằng trước hết phải thực hiện ở nghĩa vụ thuế, người giàu đóng thuế nhiều, người nghèo đóng thuế ít. Khi công bằng đã được thực hiện qua việc đóng thuế thì về nguyên tắc, các dịch vụ giáo dục do Nhà nước cung cấp, mọi công dân phải được thụ hưởng bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo. Việc miễn, giảm học phí chỉ thực hiện ở đối tượng chính sách và nhân tài. Nếu lấy học phí cao thì dù cấp học bổng cho người nghèo vẫn là ưu tiên phục vụ gia đình có thu nhập cao, như thế là bất công.
. Việc tăng học phí được dựa vào lý do nhiều năm nay học phí không tăng trong khi giá cả tăng, lương tăng, ngân sách dành cho giáo dục không tăng. Theo cách lý giải này, phải chăng giáo dục đã được coi là một loại hàng hóa?
- Đúng vậy! Quan điểm giải quyết vấn đề học phí hiện nay không đúng. Điều này thể hiện rõ ở xu hướng coi giáo dục là hàng hóa một cách máy móc. Cách giải quyết vấn đề học phí này sẽ thể hiện quan điểm chúng ta làm giáo dục vì ai. Tôi rất mong các nhà quản lý giáo dục nên suy nghĩ lại! Hình như người ta đã không thấy hết tầm quan trọng của vấn đề, không thấy hết ý nghĩa chính trị đằng sau “nền giáo dục cho ai, vì ai”. Đây chính là “lửa thử vàng”, nếu giải quyết không đúng, nó sẽ mở đường cho những quan điểm rất sai trái về giáo dục sắp tới, gây nguy hại vô cùng cho đất nước.
. Giáo sư cũng nói rằng ông không tin vào các dữ liệu về thu chi tài chính trong ngành giáo dục?
- Thực tế, hiện nay sự đóng góp của dân vào tổng chi phí của ngành giáo dục theo số liệu do Bộ GD-ĐT cung cấp cho tôi là 25%. Trong lúc đó, các chuyên gia nước ngoài tính toán, con số này tới hơn 40%, mà tôi thì tin con số 40%-50%. So sánh với các nước khác, theo số liệu của Bộ GD-ĐT thì 25% là mức trung bình, còn nếu ở mức 40% thì rõ ràng là cao nhất thế giới.
Cũng tài liệu Bộ GD-ĐT cung cấp thì đưa ra thống kê ngân sách dành cho giáo dục năm 2001 chiếm 5,6% GDP. Đây cũng là con số trung bình của thế giới (Pháp cũng là 5,6%, Trung Quốc 5,29%, Malaysia 5,8%). Nhưng chính các nhà quản lý giáo dục cũng đưa ra thông tin UNESCO khuyến cáo, ngân sách dành cho giáo dục tối thiểu phải chiếm 6% GDP. Nhưng những con số này tôi không tin và nó cần được lý giải.
Nguồn: nld.com.vn (28/11/07)









