Khoa học Việt Nam đang bơi ở ao nào?
Các công bố quốc tế của Việt Nam rất ít
Viện Thông tin Khoa học (Institute for Scientific Information – ISI, website: www.isinet.com ), có trụ sở tại Mỹ, tiến hành các thống kê trên cơ sở gần 10.000 tạp chí khoa học tiêu biểu được chọn lọc trong tổng số hơn 100.000 tạp chí đủ loại trên thế giới. Theo ISI, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố từ đầu năm 1997 đến hết năm 2007 tổng cộng 4.667 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuẩn mực, chỉ bằng 1/3 số bài của Malaysia, 1/5 của Thái Lan, dưới 1/11 của Singapore, 1/45 của Hàn Quốc, 1/110 của Trung Quốc và 1/700 của Mỹ.
Xét riêng về công bố quốc tế từ nội lực (tự ta làm được), sự tụt hậu của chúng ta lại càng lớn hơn, chỉ là 20%, còn lại là do hợp tác với quốc tế. Điều đó cho thấy các nhà khoa học của chúng ta vẫn còn phải dựa nhiều vào hỗ trợ quốc tế.
Tại sao đội ngũ khoa học công nghệ của chúng ta tuy đông về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng? Tư duy nào đã cản trở bước tiến tới hội nhập của khoa học Việt Nam những năm qua? Không ít người có đủ mọi bằng cấp và chức danh ở ta thường tìm cách lảng tránh các chuẩn mực khoa học nghiêm túc và khách quan với ngụy biện rằng chúng ta còn nghèo, trình độ chung còn thấp, rằng họ thực hiện các đề tài “nghiên cứu ứng dụng” không đòi hỏi phải có công bố quốc tế như một số “nghiên cứu lý thuyết”? Lập luận đó vẫn cứ được bám giữ trong nhiều năm.
Đâu phải tiền nào của ấy!
Năm 2006, các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) đăng được 41 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế. Cũng trong năm đó, chỉ riêng các nhà nghiên cứu của Trường ĐH Phúc Đán ở Thượng Hải đã đăng được 2.286 bài. (Nguồn: Báo cáo của nhóm chuyên gia Trường ĐH Harvard) |
Động lực nghiên cứu chất lượng để công bố quốc tế ở Việt Nam hiện nay mới chỉ xuất phát từ hai nguồn bên ngoài: Cơ hội được ra nước ngoài cộng tác hay làm thuê (như ở các ngành toán và vật lý) và từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng trong nước được quốc tế tài trợ và có sự lãnh đạo của chuyên gia nước ngoài (như trong các lĩnh vực khoa học sự sống). Động lực công bố quốc tế nội lực gần như không có: từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng trọng điểm kinh phí lớn cấp bộ ngành, cấp Nhà nước tới các đề tài nghiên cứu cơ bản kinh phí nhỏ hơn, các đầu tư chiều sâu, phòng thí nghiệm trọng điểm, các tiêu chuẩn chức danh, bằng cấp, trên thực tế, đều phớt lờ đòi hỏi cần có về công bố quốc tế. Điều đó dẫn tới số lượng ít ỏi các kết quả nội lực đạt chuẩn mực quốc tế và chất lượng rất thấp của các đề tài, chức danh khoa học.
Có ý kiến cho rằng tiền nào của ấy, nhưng thực tế cho thấy số ít các đề tài trong nước có được công bố quốc tế lại thường không phải là các đề tài được cấp nhiều tiền.
Cần tăng kinh phí nghiên cứu là đúng, nhưng hãy nhớ rằng cho dù kinh phí cho khoa học từ ngân sách Nhà nước được tăng mạnh hằng năm, nay đã vượt 400 triệu USD/năm, số bài báo quốc tế từ nội lực vẫn chỉ đứng xung quanh con số 80 bài/năm trong suốt 10 năm qua – một mức hiệu quả có lẽ vào hàng thấp nhất trên thế giới. Nói rằng ta thiếu đầu tư thiết bị nghiên cứu – cũng đúng, nhưng hãy xem bao thiết bị đắt tiền và 18 phòng thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia đã được đầu tư nhưng không được khai thác hiệu quả?
3 cốt lõi: Môi trường, chuẩn mực, chính sách Để đổi mới khoa học, việc tiên quyết phải làm là thiết lập môi trường khoa học lành mạnh dựa trên các chuẩn mực quốc tế đã được xác lập thông qua các bài báo ISI, các phát minh, sáng chế, sản phẩm mới hữu dụng - đóng vai trò như tiêu chuẩn thị trường trong kinh tế. Mọi chương trình khoa học, các đề tài nghiên cứu, các bằng cấp và chức danh khoa học đều phải được xây dựng và được đánh giá tính hiệu quả trên cái nền này. Cử người đi đào tạo thôi chưa đủ, chúng ta cần có chính sách đồng bộ để hấp dẫn những người tài trở về và tạo điều kiện thuận lợi để họ phấn đấu nghề nghiệp, có được thu nhập thỏa đáng dựa theo kết quả chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh các trường ĐH đại trà đáp ứng nhu cầu đại chúng giai đoạn hiện nay, chúng ta cần phải xây dựng các trường ĐH nghiên cứu đầu tàu, hoặc trước tiên là các nhóm nghiên cứu đầu tàu trong các trường ĐH... |
Số bài báo công bố quốc tế (ISI) các ngành qua 11 năm (1/1997-12/2007)
Lĩnh vực | Việt Nam | Thái lan | Mã lai | Hàn quốc | Trung quốc |
Y học lâm sàng Vật lý Động thực vật học Toán Kỹ thuật Hóa Nông nghiệp Địa chất Môi trường Khoa học xã hội Vi sinh Sinh học & Hóa sinh Miễn dịch học Khoa học vật liệu Dược Sinh học phân tử&ditruyền Kinh tế Khoa học thần kinh Khoa học máy tính Tâm lý học Khoa học không gian Liên ngành | 765 709 595 466 327 301 212 185 177 176 159 114 110 98 69 45
35 15 14 | 4897 681 2 233 156 1904 2618 1 023 327 878 563 900 1 144 678 766 709 275
112 167 426 86 63 16 | 1 705 833 1 119 151 1 457 3 195 654 175 640 265 269 599 89 888 276 79
142 46 387 75 | 25 050 32 313 5 798 4 490 26 867 31 644 2 907 2 204 2 730 1 911 4 861 12 148 1 467 20 946 5 619 3 395
1 605 3 464 12 194 792 1 125 107 | 34 430 86 679 17 761 20 468 53 203 127 749 4 382 16 431 10 071 4 277 3 752 20 037 2 006 60 197 7 356 6 081
2 845 4 800 17 355 2 070 4 903 1 708 |








