Khoa học phải thay đổi cách chơi để bước lên sân chơi quốc tế
Sân chơi quốc tế về khoa học
Những cuộc đấu thầu giành hợp đồng kinh tế hoặc khách hàng chính là sân chơi của giới doanh nhân. Thương trường là chiến trường, ở đây thắng - thua là khốc liệt.Cuộc cách mạng về công nghệ thông tin trong vài năm gần đây đã toàn cầu hoá và thay đổi hẳn diện mạo của các đấu trường quốc tế này. Mặt khác, do quá trình toàn cầu hoá mà ngày nay chất lượng sản phẩm và dịch vụ của những nhà cung cấp công nghệ thường ngang ngửa với nhau. Từ TV, tủ lạnh và các máy móc gia dụng khác đến các thiết bị công nghệ hiện đại, tinh vi đều nằm trên cùng một mặt bằng chung. Những ai tham gia các cuộc đấu thầu thiết bị công nghệ hẳn phải nhận ra điều này. Sản phẩm của các đại gia sàn sàn như nhau, bởi họ cùng đứng trên mặt tiền của khoa học thế giới.
Muốn không ngừng đổi mới công nghệ, đất nước phải tiếp cận được mặt tiền này. Nếu không, doanh nhân Việt nam chưa thể bước lên vũ đài thi đấu với các đại gia công nghệ vốn có truyền thống và thương hiệu lâu đời. Vào WTO chẳng khác nào một con thuyền vươn ra đại dương, mọi người hăng hái lên thuyền, còn nhà khoa học vẫn nhởn nhơ trên bến! Lý ra chính họ phải ngồi ngay vào khoang lái, vì ta vẫn nói KHCN là động lực của nền kinh tế.
Không đưa chất lượng nghiên cứu khoa học lên ngang tầm với mặt tiền trên thế giới, chúng ta cứ phải lẹt đẹt xuất khẩu các sản phẩm thô, hàng gia công, hoặc hàng chế biến của các công ty nước ngoài. Doanh số xuất khẩu có thể tăng nhanh và đầy ấn tượng như hiện nay, nhưng giá trị gia tăng lại rất ít. Rỡ bỏ rào cản khi gia nhấp WTO càng biến đất nước trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hoá và công nghệ của các đại gia nước ngoài!
Đâu là mặt tiền khoa học thế giới? Đó chính là các tạp chí và hội nghị khoa học quốc tế, sân chơi đích thực của giới nghiên cứu khoa học. Với đủ cung bậc khác nhau, mà lại không khốc liệt như sân chơi của giới doanh nhân, đây là sân chơi rộng rãi của mọi nhà khoa học, ai cũng thắng, miễn là đủ trình độ chen chân vào đó. Cho nên, số người xuất hiện trên các hội nghị và tạp chí khoa học quốc tế có uy tín đặc trưng cho trình độ khoa học và dân trí của một quốc gia. Muốn biết ngọn núi cao bao nhiêu, ta phải nhìn lên đỉnh, không ai lại đi ngắm vô số các hòn đá ở dưới chân.
Khoa học Việt nam đang ở đâu?
Không phải chỉ có các nước tiên tiến Âu Mỹ, mà ngay cả những nước chậm phát triển cũng nhận ra điều này. Hình 1 dưới đây ghi lại số bài báo (article) quốc tế tính trên một triệu dân của 9 nước Đông Á. Việt nam vào loại thấp nhất (xem hình 1). Điều này không bất ngờ, nếu lưu ý rằng bình quân thu nhập của ta cũng vào loại thấp nhất trong vùng. Nhưng những thông điệp đằng sau các con số đó mới là chuyện đáng lo ngại!
Thứ nhất, đại đa số các bài báo quốc tế của ta là do hợp tác với nước ngoài, số bài báo làm bằng nguồn nội lực trong nước rất ít, đến nay chỉ còn 13%. Trong khi số bài báo do hợp tác tăng đều theo quy luật cấp số nhân (hàm mũ), phản ánh sự tăng trưởng về đội ngũ, đầu tư và xu hướng hội nhập ngày càng gia tăng, thì số bài báo dùng nguồn nội lực, có địa chỉ thuần tuý Việt nam, vẫn dẫm chân tại chỗ, quanh con số 80 trong mười năm gần đây, thậm chí đang suy giảm. Việc tăng đầu tư cho KHCN lên 2% ngân sách nhà nước từ năm 2000 đến nay, cùng với hàng chục triệu USD đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, hầu như chưa để lại một dấu ấn gì.
![]() |
Hình 1. Số bài báo quốc tế tính trên một triệu dân của chín nước |
Thứ hai, đa số (60%) bài báo dùng nguồn nội lực của Việt nam là về Toán và Vật lý. Những chuyên ngành không cần nhiều đầu tư, và ít khi được "xã hội" quan tâm như Toán và Vật lý lý thuyết lại sản xuất ra nhiều công trình ngang tầm thế giới. Vậy đại bộ phận tiền của rót vào rất nhiều đề tài khoa học được xem là thiết thực đối với nền kinh tế đã đi về đâu? Tìm đâu để thấy chất lượng đầu ra của các phòng thí nghiệm trọng điểm được xem là những "cú đấm" lên nền kinh tế?
![]() |
Hình 2. Trong khi số bài báo do hợp tác quốc tế tăng liên tục trong hơn mười năm |
So sánh đại học hàng đầu ở Thái Lan và Việt Nam
Đại học Chulalongkorn quá tương phản với hai đại học quốc gia hàng đầu của ta trên hình 3 ắt sẽ gây sốc. ĐH Chulalongkorn là đại học công, năm 2004 có 18 khoa và một số trung tâm với 19.313 sinh viên đại học. ĐHQG Hà nội gồm bốn đại học và ba khoa độc lập với 25.000 sinh viên hệ chính quy. ĐHQG Tp Hồ Chí Minh gồm bốn đại học với 32300 sinh viên hệ chính quy (theo sách Giáo dục ĐH Việt Nam , NXB Giáo dục, 2004). Không có số liệu đáng tin cậy về đội ngũ giảng viên, Giáo sư, Tiến sỹ để so sánh. Song về chất lượng của đội ngũ, thì số bài báo quốc tế trên giản đồ hình 3 cho thấy khoảng cách một trời một vực giữa hai nước.
![]() |
Hình 3. Bài báo quốc tế làm tại Đại học Chulalongkorn, ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Tp Hồ Chí Minh trong mười năm gần đây |
Phải thay đổi cách chơi
Phải đánh cái dấu hỏi trên để xem xét lại toàn bộ "cuộc chơi" hiện nay trong nghiên cứu khoa học. Trong thời buổi hội nhập toàn cầu này, không ai lại chơi theo kiểu riêng của mình. Không có lý do gì để tự hào về cách chơi của mình khi mà chúng ta đang tụt xa phía sau người Thái vốn nằm sát ta về địa lý và trình độ phát triển. Vả lại, hàng năm nhà nước vẫn rót đều hai phần trăm ngân sách cho KHCN, năm nay chắc phải lên đến trên 300 triệu USD. Mà có tăng tiền lên nữa, tình hình vẫn không chuyển biến.
Từ nhiều năm nay, không ít người đã nói lên sự tụt hậu quá xa của chúng ta. Nhưng chưa hề có một động thái nào chứng tỏ những hồi chuông báo động đó đã đến tai những người quyết định chính sách và một bộ phận không nhỏ trong giới khoa học. Mong sao những bức tranh đáng buồn trên đây giúp chúng ta tháo gỡ những rào cản và mặc cảm trong từng người để đưa khoa học và đại học trở lại đúng quỹ đạo phát triển của thế giới.
Mục tiêu này lại không vượt quá xa tầm tay của chúng ta. Theo sách Khoa học và Công nghệ Việt nam(2003, 2004), hàng năm có trên 7000 bài báo được công bố trên các ấn phẩm trong nước. Xem qua tóm tắt những bài báo đó do Viện Thông tin Khoa học Kỹ thuật ấn hành, tôi không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng không ít bài có thể tiếp cận mặt tiền thế giới. Chỉ còn một khoảng cách nữa là công trình có thể được đóng dấu chất lượng quốc tế, tại sao các nhà khoa học lại chùn bước?











