Khoa học lãng phí - dân mất nhờ
Câu chuyện thứ nhất: “Dài cổ chờ mưa?”
Còn nhớ cách đây 5 năm, khi thảm họa cháy rừng U Minh Thượng đang ở mức cao trào, báo KH&ĐS đã đặt vấn đề về tính hiệu quả của dự án làm mưa nhân tạo sau khi đã khởi động được 6 năm (số 21 ra ngày 15/4/2002). Thời gian trôi đi, câu hỏi vẫn còn đó. Và thực tế thì vẫn vậy… cứ hẹn lại lên, năm nào cũng vậy, hạn hán không ít thì nhiều, không nặng thì nhẹ, tái hiện rải rác từ Bắc vô Nam mà tập trung nhất là khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ.
Trời vẫn không mưa… người dân lại dài cổ ngóng mấy ông khoa học xem bao giờ có thể “thay trời làm mưa”? Có điều lạ là một phiên bản của dự án mưa nhân tạo đã được chính Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo Viện Khí tượng Thuỷ văn lập lại với tiêu đề: “Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học kỹ thuật để làm mưa nhân tạo ở Việt Nam”. Câu hỏi được đặt ra, số tiền đầu tư cho dự án trước và các kết quả nghiên cứu của nó đã đi đâu? Và liệu có nhất thiết phải triển khai thêm một dự án làm mưa nhân tạo nữa hay không khi dự án trước còn chưa làm ra nổi một hạt mưa nào? Được biết, số tiền đầu tư cho đề tài cũ là hơn 100 triệu đồng và gần 1 tỷ đồng cho đề tài mới.
Điểm khác của đề tài làm mưa nhân tạo mới này là chọn đồng bằng Bắc Bộ và trung du Bắc Bộ là địa điểm thử nghiệm, trong khi đề tài trước lại chọn Tây Nguyên. GS.TS Lê Đình Quang, nguyên giám đôc Trung tâm nghiên cứu khí tượng nhiệt đới và bão (Viện Khí tượng Thuỷ văn), Phó chủ nghiệm dự án làm mưa nhân tạo từ năm 1998, cho biết, đề tài đã được hoàn thành với những kết quả nghiên cứu bước đầu trong đó có việc xác định tài nguyên mây ở Tây Nguyên (hoàn thành năm 1999). Lúc đó, những kết quả nghiên cứ khoa học đã khẳng định Tây Nguyên có đủ điều kiện làm mưa nhân tạo. Còn nhớ khi đó, GS Quang đã thông báo, chậm nhất là đến năm 2000, chuyến bay trình diễn đầu tiên làm mưa nhân tạo sẽ được tiến hành. Nhưng cái khoảng thời gian chậm nhất ấy lại một lần nữa bị kéo lùi lại với lời hứa hẹn đến tháng 3/2003 và rồi đến nay, không hiểu vì lý do gì mà nó vẫn chưa diễn ra.
Câu chuyện thứ hai: “Tốt lắm: nhưng chưa bán được”
Còn câu chuyện về thiết bị xử lý nước ô nhiễm asen của GS.TS Trần Hồng Kôn, khoa Hoá, Đại học KHTN, ĐHQG Hà Nội (báo KH&ĐS đã giới thiệu năm 2006) lại hơi khác mộtc hút. Ra đời vào đúng thời điểm cả Hà Nội “sùng sục” vì thông tin nước nhiễm asen và amoni, nhất là khu đô thị Trung Hoà – Nhân Chính. Sản phẩm được Sở KHCN Hà Nội chứng nhận là có thể xử lý asen triệt để và sử dụng vào mục đích khác hoặc đem chôn lấp an toàn. Thiết bị này cũng đã được thử nghiệm để lọc nước giếng khoan tại khu tập thể 51 Cảm Hội, phường Đông Mác, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội trong 10 ngày liên tục. Kết quả cho thấy nước trước khi lọc, nồng độ asen trong nước tại khu vực trên dao động từ 0,186 – 0,198mg/l vào mùa khô, sau khi xử lý còn nhỏ hơn 0,01mg/l, dưới giới hạn cho phép của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tiêu chuẩn Việt Nam về asen.
Những tưởng, sản phẩm sẽ bán đắt như tôm tươi thế nhưng thật đáng buồn, khó có thể tìm thấy nó tại các cửa hàng bán thiết bị lọc nước. Ngay cả người dân ở khu vực được xem là điểm nóng về ô nhiễm nước khi được hỏi về thiết bị lọc asen trên đều nhận được cái lắc đầu.
Lý giải cho sự “lên cao vút, xuống mất hút” này, GS Trần Hồng Kôn cho rằng, đó chính là cơ chế không thông thoáng, sự thiếu quan tâm của các nhà quản lý. Mặc dù, đây là sản phẩm đặt hàng của Sở KHCN Hà Nội và được đầu tư hơn 300 triệu đồng nhưng “Chẳng thấy Sở đả động gì đến việc phát triển tiếp theo của đề tài. Có ai biết đến đặt hàng, tôi vẫn làm nhưng thấy lãng phí quá”. Việc quảng bá thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu vốn là điểm yếu của các nhà khoa học, thế nên cần phải có các doanh nghiệp hỗ trợ để sản phẩm đến được với người tiêu dùng. GS Kôn cho biết, nếu sản xuất đại trà, giá bán của thiết bị này sẽ giảm còn 400.000 đồng (thay vì giá 790.000 đồng như hiện nay). Vậy đó có phải là sự lãng phí chất xám?
Câu chuyện thứ ba: Hàng “Made in Vietnam” - quên đi
Khá oai với giải “Thực tiễn Việt Nam” và giải “Ươm tạo tài năng” Trí tuệ Việt Nam 2005, thế nhưng đề tài “Ứng dụng xử lý ảnh thời gian thực để giải quyết bài toán giám sát giao thông” hiện nay đang bị bỏ xó.
KS Lê Quốc Anh, Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự, tác giả đề tài buồn rầu tâm sự: Sau khi đạt giải, ngoài số tiền đầu tư 15 triệu đồng từ Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trẻ, đề tài chẳng thể tìm nổi nhà đầu tư thực sự để triển khai ứng dụng vào thực tế. Thỉnh thoảng cũng có một vài công ty lớn có thuê chúng tôi dùng công nghệ này nhưng là để điều tra thị trường (xác định những tuyến đường có đông người qua lại vào thời điểm nào để hoặc đặt hoặc phát những quảng cáo giới thiệu sản phẩm). Thấy quá lãng phí, một phần tự ái, KS Quốc Anh đành bỏ xó “đứa con” này. Buồn hơn, khi Hà Nội đang dự kiến bỏ ra hàng tỷ đồng để nhập hệ thống camera tương tự để tối ưu hoá các đèn giao thông của nước ngoài nhưng lại bỏ qua sản phẩm “Made in Vietnam”.








