Khoa học công nghệ góp phần tăng năng suất, chất lượng cây trồng ở Bình Định
Kết quả nghiên cứu khoa học giai đoạn 2006-2010
Năm năm qua, Viện đã chủ trì và phối hợp thực hiện: 16 đề tài cấp bộ; 15 đề tài cơ sở cấp VAAS; 26 đề tài phối hợp các Viện, trường; 34 đề tài phối hợp với các tỉnh; 6 dự án nông thôn miền núi; và các dự án sản xuất thử. Riêng năm 2010 Viện được bổ sung thêm 28 đề tài/dự án mới, đưa tổng số lên 60 đề tài/dự án. Kinh phí mỗi năm từ 4,6 - 13,7 tỷ đồng
Viện đã và đang thực hiện 34 đề tài/dự án cấp tỉnh tại khu vực Nam Trung bộ, Tây nguyên, với tổng kinh phí là 4,940 tỷ đồng.
Kết quả nghiên cứu nổi bật tại tỉnh Bình Định và vùng DHNTB
Viện đã nghiên cứu khảo nghiệm có kết quả các giống lúa: DH.06, năng suất (NS) 63,8 - 72,7 tạ/ha và chịu được ở những vùng khó khăn, thiếu nước. SH2, NS 60,5 - 67,8 tạ/ha; Chất lượng gạo tương đương hoặc cao hơn ĐV108, gạo chất lượng cao, có mùi thơm; BM.9962, ĐB.06, KD.18, NS đạt từ 70 - 80 tạ/ha, chất lượng gạo tốt hơn giống IR17494, ít nhiễm sâu bệnh và khả năng thích nghi rộng, thích hợp với điều kiện sản xuất vụ ĐX và vụ Thu ở vùng DHNTB; Giống lúa chịu ngập IR64-Sub1, NS 50 - 55 tạ/ha, gạo ngon và chịu ngập sau 2 - 3 tuần sau gieo, đáp ứng được cho những vùng bị ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; Có 6 giống chống chịu được với tất cả 4 nguồn rầy như AS 996, B52, CL 8, OM4668 T (RNT 9), M12, ML2002 CL (RNT3).
Xác định được 14 giống lúa chống chịu thích hợp cho Bình Định - Phú Yên (ĐB1, ĐB6, AS 996, B52, DH14, ML 2003, HT 8, ML 4, OM 4214, P28, OM 4668 CL, M12, CL8, ML2002 CL). Kèm theo giống, Viện còn chuyển giao quy trình kỹ thuật canh tác cho địa phương.
Các giống đậu phụng LDH.01, NS bình quân trên đất phù sa vùng DHNTB là 34,6 tạ/ha và trên đất cát ven biển vùng DHNTB là 28,5 tạ/ha, lạc L.23 NS bình quân từ 25,7 - 36,6 tạ/ha trên đất cát biển, và từ 35,7 - 43,9 tạ/ha trên đất phù sa, vượt giống lạc đối chứng từ 32,1 - 60,6 tạ/ha, giống ngô lai LVN.61, KK67NS 80-84 tạ/ha,vượt hơn C919 là 9 tạ/ha và lãi ròng vượt 25%. Giống mì SM2075-18- NS từ 29,3-32,1 tấn/ha cao hơn giống đ/c KM94 từ 10-20%, có khả năng chịu hạn tốt, phù hợp với điều kiện canh tác trên vùng đất cát ven biển và gò đồi của vùng DHNTB và Tây Nguyên; Giống khoai lang KTM7, DH3 trên đất cát bạc màu, KMT4 NS 17,42 - 28,04 tấn/ha. Trồng đậu xanh xen sắn có NS sắn là 31,9 T/ha, tăng 25,2% so với sắn trồng thuần và lãi ròng 4.789.000 đ/ha.
Ngoài ra Viện còn nghiên cứu tuyển chọn nhiều giống khác như: Giống đậu tương ĐTDH.01 có TGST từ 81 - 89 ngày, NS từ 21,3 - 35,2 tạ/ha ở vùng DHNTB, Tây nguyên và đã được công nhận là giống cây trồng mới ngày 5 tháng 8 năm 2010; ĐTDH.02 có TGST<88 ngày trong điều kiện khí hậu vùng Tây Nguyên, NS bình quân qua 4 vụ đạt 28,5 tạ/ha; Giống ĐVN5 có TGST trung bình là 80 ngày (vụ ĐX) và 88 ngày (vụ HT); NS bình quân đạt 27,6 tạ/ha.
Giống đậu xanh ĐX.14 NS bình quân qua 3 thí nghiệm ở vụ ĐX là 19,2 tạ/ha.
Viện còn hoàn thiện quy trình sản xuất lạc Thu đông trên đất đồi gò vùng DHNTB. Thực hiện mô hình thâm canh và quy trình nhân giống lạc L.14, LDH.01, L18 NS cao, trên một số loại đất ở tỉnh Bình Định.
Ngoài ra Viện còn tuyển chọn một số giống cải, ớt, hoa cúc, lay-ơn, lyly, lan, các dòng điều... và các biện pháp canh tác hữu hiệu nhất.
Như vậy, trong 5 năm, Viện đã phối hợp với Sở KH&CN Bình Định thực hiện 6 đề tài, dự án nhưng đã có 9 kết quả nghiên cứu nổi bật và đã có 18 kết quả từ các đề tài dự án khác đã được triển khai thí nghiệm, xây dựng mô hình trình diễn, chuyển giao công nghệ trên địa bàn tỉnh.
Từ những kết quả nghiên cứu nổi bật như đã nêu trên, trong giai đoạn 2006 - 2010, hàng năm Viện đã thực hiện các mô hình trình diễn của 6-8 dự án thuộc Chương trình Khuyến nông Quốc gia (lúa, ngô, điều, xoài, lạc, 3 giảm 3 tăng trong sản xuất lúa chất lượng, rau hoa) với diện tích 150 - 250 ha, có 600 - 1.000 hộ tham gia. Hàng năm thực hiện 3 - 5 dự án thuộc Chương trình NTMN (lúa, ngô, cỏ, điều, sa nhân, đậu đỗ...) với diện tích 150 - 200 ha, tại các vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm cũng như khó khăn ở các tỉnh DHNTB và Tây nguyên. Trong đó, các MH sản xuất thử nghiệm triển khai tại các địa phương trong tỉnh Bình Định chiếm từ 30 - 40% về quy mô diện tích.
Như vậy, với kết quả đạt được của Viện nói trên, đã góp phần tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trên đơn vị đất canh tác ở vùng DHNTB nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng. Từ đó cho thấy vai trò quan trọng của KH&CN đối với sản xuất nông nghiệp là rất lớn.








