Khoa học cơ bản là nền tảng cho sự phát triển của công nghệ
Phóng viên (PV ): Xin chào Giáo sư. Là một người nắm cương vị điều hành gần như cao nhất của cơ quan nghiên cứu đầu ngành về KHCB của Việt Nam, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước ta còn là nền kinh tế đang phát triển mặc dù thời gian qua đã có những khởi sắc đáng mừng, xin giáo sư cho biết việc đầu tư cho nghiên cứu KHCB ở nước ta ở mức nào là thích hợp và cần thiết?
Giáo sư Nguyễn Khoa Sơn (GS):Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần xác định nghiên cứu cơ bản (NCCB) là gì? Đó là ngành khoa học nghiên cứu và tìm ra những quy luật của tự nhiên. Các lĩnh vực của KHCB bao gồm các ngành Toán học, Vật lý, Sinh học, Hóa học, Địa chất, Khoa học Trái Đất, Sinh thái học... Có thể coi NCCB là nền tảng cho việc phát triển công nghệ bởi từ những thành tựu của NCCB người ta tìm ra những giải pháp công nghệ phục vụ cho sản xuất.
Đối với nước ta, vai trò của KHCB chính là nâng cao tiềm lực khoa học của đất nước, là góp phần xây dựng nền công nghệ phát triển. Do đó, chúng ta nên đầu tư một cách lâu dài và theo hướng bền vững cho khoa học công nghệ nước nhà. Chúng ta phải đặt KHCB vào đúng vị trí của nó và nên đầu tư có trọng tâm, hướng đến yếu tố quyết định là con người làm NCCB. Để làm được điều này, trước hết chúng ta cần chú trọng đến vấn đề thông tin. Thông tin có được cập nhật thường xuyên và đáp ứng yêu cầu của người dùng tin một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất mới đảm bảo cho NCCB được chính xác toàn diện. Đầu tư cho vật tư, cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng thứ 2. Do đất nước còn khó khăn, chúng ta chưa thể đòi hỏi những thiết bị tối tân nhất như tại các nước phát triển (Mỹ, Nhật Bản...) nhưng cũng đừng quên tạo điều kiện tốt nhất có thể được cho NCCB (những thiết bị máy móc không thể thiếu như máy gia tốc hạt, máy điện ly…)
PV:Như vậy, đầu tư cho KHCB trước hết phải đúng hướng, đúng tầm và sau đó là phải đúng việc.Theo giáo sư, đầu tư của Nhà nước đã đáp ứng được yêu cầu của KHCB chưa?
GS:Trước đây, từ năm 1975, Viện khoa học Việt Nam(tên tiền thân của Viện Khoa học công nghệ Việt Nam ) đóng vai trò là cơ quan nghiên cứu khoa học đầu não của cả nước. Viện mang tên Viện khoa học công nghệ Việt Nam kể từ 2004. Từ khi ra đời, Nhà nước ta đã và đang không ngừng tăng mức đầu tư cho KHCB. Đến nay, mức đầu tư đã đạt hơn 300 tỷ/năm và chủ yếu là cho cơ sở vật chất … Về quy mô, đầu tư của Nhà nước cho KHCB đã tăng rõ rệt. Tuy nhiên, để đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu của NCCB thì vẫn là rất khó. Chúng ta vẫn chưa có những thư viện số hóa, vẫn chưa có Viện hay trường Đại học nào (kể cả trường Bách khoa là trung tâm khoa học có tiếng nhất hiện nay trong cả nước) có điều kiện cập nhật nhanh nhất các thông tin, có các tạp chí khoa học hàng đầu trên thế giới. Trong khi thông tin luôn là yêu cầu bức thiết của những người làm NCCB. Bên cạnh đó, đầu tư cho các đề tài NCCB vẫn còn quá dàn trải. Thông qua các Hội đồng ngành KHCB, mỗi năm có từ 60 đến 70 tỷ đồng chi cho các đề tài NCCB. Tính ra, mỗi giáo sư tiến sỹ, mỗi nhà khoa học chỉ được sử dụng 1000 USD cho 1 đề tài KHCB. Sắp tới, đầu tư cho KHCB sẽ thông qua Quỹ hỗ trợ phát triển Khoa học Công nghệ (thuộc bộ Khoa học công nghệ). Hy vọng rằng, với Quỹ này (mục tiêu của Quỹ là đầu tư cho NCCB), công tác nghiên cứu KHCB sẽ có những triển vọng tích cực hơn.
PV:Giáo sư có nhắc tới vấn đề thông tin. Xin hỏi giáo sư đã tới thăm Trung tâm thông tin Quốc gia chưa?
GS:Tôi đã đến thăm và làm việc một số lần tại Trung tâm thông tin Quốc gia. Trung tâm có bộ cơ sở dự liệu (CSDL) rất đầy đủ, cập nhật và có chất lượng cao. Đã có rất nhiều bạn đọc đến sử dụng và đánh giá tích cực về bộ CSDL của Trung tâm. Tuy nhiên, hạn chế của Trung tâm lại chính là hạ tầng mạng. Người muốn sử dụng bộ CSDL đều phải đến tận nơi mới có thể khai thác được.
PV:Là người lãnh đạo Viện, giáo sư đánh giá hiệu quả của đầu tư cho NCCB đạt được trong thời gian qua như thế nào?
GS:Kể từ khi mang tên Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam , Viện đã có những định hướng mới, rộng hơn hướng tới lĩnh vực ứng dụng khoa học công nghệ cao vào cuộc sống. Do đó, trong 10 năm gần đây, NCCB ít được chú ý hơn trước. Hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho NCCB ở Viện là rất tốt. Hàng năm, Viện có từ 300 đến 400 công trình nghiên cứu về các đề tài như vật lý lý thuyết, cơ học lý thuyết... kết quả nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí khoa học hàng đầu quốc tế. Gần đây Viện có nhiều công trình có giá trị khoa học rất cao. Đáng nói nhất là bộ sách "Động vật chí và thực vật chí"- một chuyên khảo đồ sộ về các loài động, thực vật của Việt Nam . Mới đây, Viện đã vinh dự đón nhận giải thưởng khoa học Hồ Chí Minh với cuốn “Atlas Địa lý Việt Nam” đầu tiên xuất bản. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư còn thể hiện qua việc đào tạo sau đại học của Viện. Hàng năm, 17 đơn vị đào tạo sau đại học của Viện đón nhận trên 300 học viên (trong số đó có hơn 200 người làm luận án tiến sỹ). Nhiều đoàn chuyên gia khoa học quốc tế đến thăm và làm việc với Viện đều đánh giá tốt về chất lượng chuyên môn cũng như đào tạo của Viện.
PV:Có ý kiến cho rằng Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam là nơi quy tụ các nhà trí thức giỏi nhất của đất nước. Theo giáo sư, ý kiến này có chính xác không?
GS:Trước đây, ý kiến này là đúng. Đến nay, đã xuất hiện nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ có chất lượng cao nên cụm từ "quy tụ những trí thức giỏi nhất" là không hoàn toàn đúng. Nhưng quy tụ những nhà khoa học làm công tác nghiên cứu KHCB có trình độ giỏi nhất là đúng. Hàng năm, có hơn 35% các đề tài KHCB được Nhà nước chú trọng đầu tư đều là các đề tài của Viện Khoa học Công nghệ. Viện đóng vai trò là địa chỉ hợp tác rất tốt với các cơ quan quốc tế như Cơ quan Nguyên tử WNA, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp CNRS...Viện còn là cơ quan đầu mối cao nhất về công nghệ vũ trụ của cả nước. Có thể nói hiện nay, Viện là trung tâm khoa học công nghệ cao mạnh nhất Việt Nam .
PV:Xin hỏi giáo sư thêm một câu. Hiện nay, người ta nói xu hướng hợp tác giữa các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài trong các công trình nghiên cứu cơ bản thể hiện nội lực giảm sút của KHCB nước nhà. Giáo sư nghĩ thế nào về vấn đề này?
GS:Trong xu hướng hội nhập toàn cầu hiện nay, sự hợp tác trong NCCB là hoàn toàn bình thường. Trước khi xuất hiện những công trình hợp tác như vậy, chúng tôi đã có nhiều công trình, đề tài khoa học được các chuyên gia khoa học hàng đầu thế giới kiểm định và đăng tải trên nhiều tạp chí có uy tín. Thêm vào đó, hiện nay, nếu có sự hợp tác của các nhà khoa học quốc tế thì các công trình của Viện đều là những công trình đồng tác giả giữa nhà khoa học Việt Nam và nhà khoa học nước ngoài.
PV:Xin cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi rất thẳng thắn. Chúc cho Viện khoa học Công nghệ Việt Nam luôn là con chim đầu đàn trong NCCB và gặt hái được nhiều thành công trong thời gian tới.








