Kháng insulin trong đái tháo đường túp 2
Điều hòa glucoz huyết bình thường: vai trò của insulin
Ở người mặc dù glucoz được đưa vào cơ thể không liên tục (từ bữa ăn) và luôn luôn khác nhau trong xuất phát (do sử dụng của cơ thể), glucoz huyết vẫn ổn định. Một trong các hormon liên hệ đến việc điều hòa đó là insulin.
Xa bữa ăn, như sáng sớm bụng đói chẳng hạn, nồng độ glucoz huyết vẫn duy trì là do có cân bằng sản xuất glucoz từ gan và tiêu thụ glucoz từ các mô. Trong trường hợp này, gan là tạng duy nhất sản xuất glucoz: ¾ từ chuyển hóa glycogen dự trữ trong gan, ¼ còn lại do tân tạo từ các lớp cơ sở dưới: lactat, axit amin, glycerol. Glucoz giải phóng vào hệ tuần hoàn được các mô ngoại biên bắt chiếm. Não là tạng sử dụng chính yếu (đến 50%); nơi đây glucoz đi vào tự do. Phân nửa, 50% còn lại, chia ra: 15% cho thận, 15% cho cơ, 20% cho các mô khác. Ở giai đoạn này (xa bữa ăn, bụng đói), việc tiết insulin bị kìm hãm, gan tự do giải phóng glucoz không bị việc sử dụng ngoại biên cản trở, vì lẽ các tạng tiêu thụ ngoại biên là những mô không nhạy insulin (não, ruột, thận, huyết cầu…). Glucogon, mà hiệu năng độc nhất là ở gan, đóng vai trò chính yếu do kích thích vừa phần chuyển hóa glycogen dự trữ, vừa phần tân tạo glucoz của gan từ các lớp cơ sở dưới: lactat, axit amin, glycerol.
Trong giai đoạn sau bữa ăn, glucoz được đưa ồ ạt vào cơ thể, có khả năng tạo tăng glucoz huyết quá mức, nếu không có hai hiện tượng điều hòa: gan giảm sản xuất độ 50% và có thể tăng sử dụng để hạn chế tình thế gia tăng. Gan thu hút độ 35% để tạo lại dự trữ glycogen. Còn lại 65%, có thể hút hết để tổng hợp glucogen và phần rất nhỏ để oxy hóa. Ở giai đoạn này, vai trò của insulin là mấu chốt quyết định. Được tiết ra để đáp ứng với tăng glucoz huyết, giờ đây phải can hệ đến giảm phân nửa sản xuất glucoz ở gan và nhất là phải kích thích bắt chiếm glucoz trong các mô ngoại biên nhạy insulin và việc tổng hợp sang glycogen.
Điều hòa glucoz huyết và đái tháo đường túp 2: vai trò kháng insulin
Đặc điểm của đái tháo đường túp 2 là vừa biến tính chất lượng tiết insulin vừa giảm cảm ứng đối với insulin có nghĩa giảm những hiệu năng bình thường của insulin trên các mô bia chính yếu. Nó gây khác nhau rối loạn cân bằng glucoz bình thường tùy bia (gan và/hay tạng ngoại biên) và tùy mức độ trầm trọng.
Về mặt sinh lý bệnh, có thể định nghĩa đái tháo đường túp 2 xuất hiện là lúc mà tăng tiết insulin không còn khả năng bù trừ kháng insulin đưa đến tăng glucoz huyết: ở người đái tháo đường túp 2, việc sử dụng glucoz giảm đi từ 35 đến 40% trong tổng số chung.
Hệ quả kháng insulin
Kháng insulin kéo theo tăng glucoz huyết và làm nặng thêm thiếu hụt ở tụy. Hệ quả trên chuyển hóa lipid khá nhiều: tăng triglycerid, tăng cholesterol, giảm tỉ số HDL/LDL, tất cả các thông số đó tạo thuận lợi sinh vữa động mạch, tạo nguồn gốc tăng nguy cơ bệnh tim mạch ở người đái tháo đường túp 2.
Mặt khác, kháng insulin kết hợp - và cũng có thể nguồn gốc - của cao huyết áp và dị thường đông máu, hai yếu tố nguy cơ phụ của vữa động mạch.
Nguyên nhân và cơ chế kháng insulin
Những dị thường can hệ đến kháng insulin gồm nhiều yếu tố tiềm năng khác nhau. Có thể liên quan đến insulin và kháng thể kháng insulin, các thụ thể insulin của tế bào, những cơ chế chuyển vận insulin nội bào. Từng ấy đa dạng yếu tố giải thích sự không thuần chất của bệnh đái tháo đường túp 2.
Ngoài các nguyên nhân kháng insulin thuộc thể tạng có một nguyên nhân gọi "chức năng" - vì đảo lộn được - đó là béo phì nội tạng, vì thế, giảm béo phì nội tạng cỉa thiện hoặc làm biến mất kháng insulin.
Tăng glucoz huyết, đơn độc cũng là yếu tố kháng insulin do các chuyển vận nội bào bị nghịch chuyển.
Cũng như thế, tăng insulin huyết kéo theo nghịch chuyển các thụ thể insulin. Cuối cùng, các tham số khác cũng can hệ đến kháng insulin như tăng: cortisol, ACTH, glucagon, các hormon của stress và thiếu magne.
Ngược lại, thể dục giúp tế bào cơ sử dụng glucoz bằng cách kích thích tổng hợp và cải thiện các thụ thể với insulin; thể dục là yếu tố chống kháng insulin ngang hàng với làm gầy cơ thể.
Như thế, có ba yếu tố gây kháng insulin: tăng glucoz huyết, béo phì và cuộc sống tĩnh tại. Cũng quan trọng hàng đầu tình huống: nghiện thuốc lá, cao huyết áp, tăng lipid huyết.








