Khái quát về quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới
1. Quyền tư pháp trong lý thuyết phân quyền
Nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, các quốc gia có quan niệm không giống nhau về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp và chủ thể thực hiện quyền tư pháp. Nhận thức khác nhau này có thể được lý giải từ sự khác nhau về bản chất, mục đích, đặc điểm quyền lực nhà nước ở mỗi nước, cũng như sự chi phối bởi các yếu tố lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia…
Trong một Nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện ý chí của mình trực tiếp qua sự biểu quyết và bầu cử hoặc gián tiếp qua sự hình thành các tổ chức nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong chế độ dân chủ tư sản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân lập các quyền. Cội nguồn tư tưởng của lý thuyết phân quyền cần phải nói đến sự khai sáng của nhà triết học người Anh John Locke (1632-1704) và nhà triết học người Pháp và quyền hành pháp. Quyền hành pháp thuộc về vua và quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Trong lý thuyết của mình, John Locke lưu ý rằng sự độc lập của thẩm phán cần phải được tôn trọng, nhưng ông không đưa ra được mô hình cụ thể của quyền lực này. Sau đó Charles de Montesquieu đã phát triển lý thuyết của John Locke, ở đó Ông chia quyền lực nhà nước thành ba nhóm: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Theo Montesquieu, với quyền tư pháp nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Trên thực tế, sự phân chia quyền lực đầu tiên được tuyên bố công khai trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 và được diễn tả với mục đích kiểm soát và cân bằng (Checks and Balances).
Như sẽ đề cập dưới đây, trong nhiều Nhà nước tư sản, quyền lực nhà nước được phân chia thành ba lĩnh vực: Quyền lực lập pháp (Legislative - quyền làm luật), quyền lực hành pháp (Exekutive - quyền thực thi pháp luật) và quyền lực tư pháp (Judikative-quyền tài phán). Bản chất của phân quyền là lấy quyền lực để hạn chế quyền lực. Mục đích của phân quyền là để các thiết chế Nhà nước kiểm soát lẫn nhau và cùng với đó ngăn cản sự tập trung quyền lực trong tay một người hay một tổ chức (như trong chế độ quân chủ thời trung cổ). Nói cách khác, phân quyền nhằm chống lại quyền lực độc đoán, tùy tiện trong bộ máy nhà nước mà thực chất là để chế ngự lẫn nhau và bảo vệ quyền lợi của những phe cánh khác nhau của giai cấp tư sản trong bộ máy nhà nước. Có người hiểu lầm sự phân chia quyền lực có nghĩa là sự phân tách hoàn toàn của các nhánh quyền lực. Trong sự hiểu lầm này người ta không nhận ra rằng, sự phân chia quyền lực chỉ có thể tác động bằng cách các cơ quan của một nhánh khác để có thể thực hiện hiệu quả chức năng kiểm soát của nó. Trong sự phân quyền, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp đặt dưới sự kiểm soát lẫn nhau và được phân chia trước hết theo chiều ngang. Giữa ba quyền này có sự phân biệt về chức năng, nhưng hợp tác với nhau. Sự tương tác của ba quyền lực nhà nước này đòi hỏi không có quyền lực nào chiếm ưu thế hơn hai quyền lực còn lại và không có quyền lực nào thống trị các quyền lực kia.
Bên cạnh sự phân chia quyền lực theo chiều ngang giữa quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp như nói ở trên, ngày nay chúng ta còn biết đến sự phân quyền theo chiều dọc giữa quyền lực nhà nước và quyền tự quản của địa phương. Trong Nhà nước liên bang, sự phân quyền theo chiều dọc này còn được mở rộng cho các nhà nước thành viên cùng với các thẩm quyền riêng.
2. Quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới
2.1. Quyền tư pháp trong phân chia quyền lực ở Đức
Ở Đức, sự phân chia quyền lực theo chiều ngang được thực hiện trên cơ sở Điều 20 của Đạo luật cơ bản. Về phương diện khoa học, quyền lập pháp thường được hiểu là quyền lực, trên cơ sở đó các tổ chức nhất định được trao cho quyền làm luật. Trong một nền dân chủ đại diện, quyền lập pháp được trao cho Quốc hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là tư vấn, ban hành các đạo luật và kiểm tra quyền hành pháp. Bên cạnh các hoạt động này, thuộc vào lĩnh vực nhiệm vụ của quyền lập pháp là các quyết định về ngân sách liên bang, chiếm đóng quân sự ở nước ngoài, bầu cử Thủ tướng. Ở cấp liên bang, quyền lập pháp được thực hiện bởi Quốc hội liên bang, quyền lập pháp được đại diện bởi các Quốc hội của các bang tương ứng. Ở cấp xã không tồn tại quyền lập pháp.
Nhánh đạo luật hiện hành trên quyền lực thứ hai là quyền hành pháp. Quyền hành pháp là quyền lực thực thi các danh nghĩa của Nhà nước. Quyền hành pháp bao gồm cả sự cai trị và sự quản lý. Ở Đức, tính vào cấu trúc nhân sự của quyền hành pháp là tất cả các công chức liên bang, công chức bang và công chức xã. Khác với ở Việt Nam , ở Đức viện kiểm sát được xếp vào nhóm cơ quan hành pháp.
Ở Đức, xuất phát từ sự phân chia quyền lực ba bên mang tính cổ điển, khái niệm quyền tư pháp diễn tả quyền lực thứ ba hoặc quyền tài phán, tồn tại bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được phân chia cho ba cơ quan nhà nước khác nhau là Quốc hội, Chính phủ, và tòa án với các thẩm phán độc lập. Giống như các nền dân chủ nghị viện khác, hình thức cổ điển của sự phân chia quyền lực này chỉ còn tồn tại trong một cách thức đã có sự thay đổi. Quyền tư pháp kiểm soát sự tuân thủ pháp luật, duy trì, cụ thể hóa và phát triển của pháp luật. Quyền tư pháp được trao cho các tòa án và thẩm phán, các tổ chức và công chức có thẩm quyền tài phán hoạt động trên danh nghĩa của Nhà nước. Các tòa án độc lập với Chính phủ và hoạt động độc lập theo Hiến pháp và chỉ tuân theo pháp luật chứ không theo các chỉ thị (Điều 97 Đạo luật cơ bản). Quyền tư pháp được thực hiện bởi Tòa án hiến pháp liên bang, các tòa án liên bang và các tòa án của các bang. Tòa án hiến pháp liên bang được xem như thiết chế tư pháp cao nhất. Cơ quan này có thẩm quyền kiểm tra sự tuân thủ các đạo luật và xác định liệu các đạo luật có mâu thuẫn với hiến pháp hay không. Tòa án hiến pháp có thể ngăn chặn Thủ tướng (một bộ phận của quyền hành pháp) và Quốc hội (một phần của quyền lập pháp) nếu như các thiết chế này làm hoặc quyết định điều gì đó trái với hiến pháp. Sự phân chia quyền lực ở Đức được tiến hành theo Điều 20 của Đạo luật cơ bản. Sự phân chia này không quá khắt khe và có thể chuyển giao cho nhánh quyền lực khác. Chẳng hạn, Quốc hội liên bang lựa chọn Thủ tướng; tòa án có nghĩa vụ cấp đăng ký, như cấp đăng ký thương mại. Ở Đức, do quyền tư pháp có vị trí rất mạnh làm cho không gian hành động của sự thể hiện mang tính chính trị bị giới hạn trong phạm vi đáng kể. Một mặt điều này được ủng hộ như là "sự kiềm chế" của quyền thể hiện của đa số trong Quốc hội và quyền hành pháp, nhưng mặt khác, theo nhìn nhận của một số người thì sự thống trị của quyền tư pháp đối với quyền lập pháp và quyền hành pháp có thể được nhìn nhận như là tiêu cực, bởi nó tạo ra Nhà nước tư pháp.
2.2. Nhận thức về quyền tư pháp ở Áo
Ở Áo, quyền tư pháp được sử dụng cùng với khái niệm quyền xét xử, quyền tài phán và được coi là một trong ba quyền lực tiêu biểu. Thuộc vào thiết chế quyền tư pháp là các tòa án khác nhau, các viện công tố cũng như các thẩm phán và công tố viên hoạt động trong các cơ quan này. Những thiết chế này chăm lo cho việc áp dụng pháp luật trong những trường hợp tranh chấp, cũng như đảm bảo rằng những người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hoặc những người bị đơn không có lỗi được coi vô tội. Khác với ở Đức, ở Áo nguyên tắc phân chia quyền lực giữa tư pháp và hành pháp được thể hiện ở mức độ cao hơn. Theo Điều 94 của Hiến pháp Liên bang Áo, tư pháp được tách khỏi hành pháp trong tất cả các cấp xét xử.
2.3. Nhận thức về quyền tư pháp ở Thụy Sĩ
Ở Thụy Sĩ, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trên lĩnh vực liên bang đã được xác định cùng với Hiến pháp Liên bang năm 1848. Giống như ở Đức, trong sự phân chia quyền lực ở Thụy Sĩ, quyền tư pháp được hiểu là một trong ba quyền lực nhà nước bên cạnh quyền lập pháp, quyền hành pháp. Quyền tư pháp gần nghĩa hơn với khái niệm quyền tài phán. Quyền tư pháp được thực hiện bởi Tòa án liên bang, Tòa hình sự liên bang, Tòa hành chính liên bang và Tòa bảo hiểm liên bang. Quyền tư pháp cũng được thiết lập ở cấp tiểu bang và cấp xã. Ở cấp tiểu bang, quyền tư pháp phân chia cho Tòa tối cao và Tòa hành chính. Ở một số tiểu bang còn có Tòa bảo hiểm. Tòa án cấp huyện và thẩm phán Tòa hòa giải là những thiết chế của quyền tư pháp trên địa bàn xã. Thẩm phán Tòa hòa giải là những người thực thi quyền tư pháp ở cấp thấp nhất. Nhiệm vụ của họ làm trung gian hòa giải các tranh chấp.
2.4. Tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở Pháp
Trong ngôn ngữ từ điển, thuật ngữ quyền tư pháp được định nghĩa là một trong ba quyền lực của Nhà nước, bao gồm: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền tư pháp thực hiện chức năng xét xử đảm bảo trừng phạt các vi phạm pháp luật và căn cứ vào pháp luật để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực thi pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong khi đó, cơ quan tư pháp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các cơ quan thực hiện chức năng tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử); theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các cơ quan xét xử, đó là tòa án.
Hệ thống định chế của Pháp dựa trên sự phân tách quyền lực, trong đó quyền tư pháp gắn với áp dụng luật. Tư pháp tạo thành trụ cột thứ ba của Nhà nước và độc lập với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Quyền tư pháp bảo đảm các tự do cơ bản và Nhà nước pháp quyền cũng như kiểm soát việc áp dụng pháp luật và sự chú ý các quyền của mỗi cá nhân. Theo tư tưởng của người Pháp, quyền tư pháp có tất cả những nơi mà ở đó quyền tự do của cá nhân cần được bảo vệ. Theo Điều 66 Hiến pháp của nước Pháp, các cơ quan tư pháp được xem như người gác canh bảo vệ tự do cá nhân, bảo đảm sự duy trì nguyên tắc này theo các điều kiện đã được pháp luật xác định. Đặc điểm của quyền tư pháp của Pháp là hệ thống tòa án cấu trúc thành kim tự tháp đôi và phân chia thành hai nhánh tòa án khác nhau là tòa án hành chính và tòa án tư pháp (hay còn gọi là tòa án trật tự). Mỗi nhánh tòa án trong hai nhánh nói trên lại được thiết lập theo hình kim tự pháp: Ở đỉnh là một tòa án và ở dưới là nhiều tòa án với thẩm quyền khác nhau.
Các tòa án hành chính có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp giữa người dân với công chức (theo luật công). Như là tòa án sơ thẩm và tòa án chung thẩm Hội đồng nhà nước (Conseil d'Estat) vừa là người tư vấn của Chính phủ, vừa là tòa án hành chính tối cao. Các tòa án có thẩm quyền chung là các tòa hành chính, các tòa án hành chính đối với quyết định kháng cáo và Hội đồng nhà nước (như tòa án). Các tòa án có thẩm quyền đặc biệt là tòa tài chính (tòa kiểm toán, các tòa án kiểm toán địa phương, tòa chuyên ngành về các công việc ngân sách và tài chính) cũng như các Ủy ban khác (như các bộ phận chuyên ngành của các hiệp hội nghề nghiệp).
Nhóm thứ hai là các tòa án trật tự, các tòa án này có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp giữa các công dân và trừng phạt những hành động tội phạm gây ra cho cá nhân, tài sản và xã hội. Cần phân biệt ba loại tòa án: Các tòa sơ thẩm, các tòa phúc thẩm và tòa phá án.
Các tòa sơ thẩm:Gồm tòa dân sự và tòa hình sự.
Các tòa dân sự: Các tòa sơ thẩm, các tòa thượng thẩm, các tòa thương mại, các tòa lao động, các tòa đồng hạng đối với các vấn đề thuế và sử dụng đất nông nghiệp, các tòa án giải quyết các tranh chấp bảo hiểm xã hội theo luật.
Các tòa hình sự: Bao gồm tòa hình sự chung và tòa hình sự đặc biệt.
Các tòa hình sự luật chung: Các tòa cảnh sát, các tòa hình sự trong tòa thượng thẩm và các tòa án thấp hơn được xét xử bởi bồi thẩm đoàn.
Các tòa hình sự đặc biệt như tòa án cho vị thành niên, tòa án về các vấn đề quân sự, tòa án về các vấn đề chính trị và tòa án hải quân về các sự vụ thương mại.
"Các tòa gần": Các tòa này có thể đặt dưới tòa hình sự hoặc tòa dân sự. Chúng được tổ chức bởi Đạo luật ngày 9/9/2002 để công lý dễ được tiếp cận hơn, có thể hành động nhanh hơn và tranh chấp nhỏ trong đời sống hàng ngày được xử lý nhanh hơn. Ở trong các tòa án này chỉ các thẩm phán không chuyên nghiệp hoạt động.
Các tòa phúc thẩm(tòa cấp thứ hai): Các tòa kháng án.
Tòa án tối cao:Tòa phá án là cơ quan tài phán cao nhất trong trật tự pháp lý của Pháp. Tòa phá án có nhiệm vụ kiểm tra các quyết định của các tòa án sơ thẩm và tòa phúc thẩm trong lĩnh vực Luật Dân sự và hình sự. Chỉ được quyết định ở Tòa phá án là những vấn đề pháp luật hoặc sự áp dụng chúng. Bằng cách này, Tòa phá án bảo đảm sự áp dụng các đạo luật một cách hài hòa.
2.5. Cơ quan thực hiện quyền tư pháp ở Na Uy
Ở Na Uy, quyền tư pháp được xem như quyền lực nhà nước thứ ba. Các tòa án trật tự bao gồm Tòa án tối cao (HÆyesterett), Ủy ban sàng lọc của Tòa án tối cao (HÆyesterett Kjæremålsutvalg), tòa án cấp huyện (tingrettene) và các Ban hòa giải/cơ quan so sánh (forliksrådet) và một số tòa án đặc biệt. Hệ thống tư pháp Na Uy được phân chia thành 6 khu vực tài phán lãnh thổ và 15 tòa khu vực.
2.6. Phạm vi thực thi quyền tư pháp Ailen
Hệ thống phân chia quyền lực ở Ailen được thiết kế theo cách không quyền nào trong ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp có sự ưu tiên cơ bản so với các quyền kia. Theo Luật hiến pháp, tư pháp có các chức năng giám sát sự phân chia cụ thể của quyền lực nhà nước theo hiến pháp thành 3 quyền và bảo đảm sự duy trì chúng. Nghĩa vụ của quyền tư pháp là ngăn chặn sự vi phạm hiến pháp và các đạo luật như là sản phẩm của quyền lập pháp và sự vi phạm hiến pháp của quyền hành pháp và của nhân dân. Mặc dù tất cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có nghĩa vụ theo Luật hiến pháp nhưng chỉ quyền tư pháp được trao quyền giải thích hiến pháp. Đây không phải đặc ân mà là trách nhiệm của quyền tư pháp.
2.7. Tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở Ba Lan
Trật tự chính trị của Cộng hòa Ba Lan theo Điều 10 của Hiến pháp dựa trên sự phân chia của quyền lực và sự cân bằng của quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền tư pháp thuộc vào thẩm quyền của các tòa án như Tòa tối cao, Tòa trật tự, Tòa hành chính và Tòa quân sự (Điều 175 Hiến pháp). Ngoài ra, trong hệ thống cơ quan tư pháp của đất nước này còn có các tòa chuyên trách như Tòa án hiến pháp (Điều 188 Hiến pháp) và Tòa án quốc gia (Điều 198 Hiến pháp). Tòa án tối cao có vị trí cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tòa tối cao kiểm soát hoạt động của các tòa án quân sự cũng như tòa án trật tự.
2.8. Cơ sở hiến pháp của quyền tư pháp ở Nga
Theo Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Nga, quyền lực Nhà nước được thực hiện trên cơ sở phân chia giữa quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp và các cơ quan quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập (Điều 10). Nhưng trên thực tế, ở Nga không có sự phân chia quyền lực hoàn toàn theo lý thuyết tam quyền phân lập. Nói chính xác hơn, chỉ diễn ra sự phân chia công việc về mặt kỹ thuật giữa các cơ quan nhà nước với nhau như phân chia chức năng, đối tượng, phạm vi thẩm quyền, phạm vi hoạt động.
Ở Nga, quyền tư pháp được quy định ở Chương 7 của Hiến pháp, trong đó có quy định về tòa án (từ Điều 118-128) và viện kiểm sát (Điều 129). Quyền tư pháp được thực hiện bởi các tòa án. Quyền tư pháp độc lập và không phụ thuộc vào quyền lập pháp và quyền hành pháp. Hệ thống tòa án của Nga bao gồm các tòa án liên bang, các tòa án hiến pháp và các thẩm phán hòa giải.
2.9. Vị trí của quyền tư pháp ở Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, Hiến pháp năm 1787 ghi nhận 4 nguyên tắc quan trọng là: Phân chia quyền lực, chủ nghĩa liên bang, chủ quyền nhân dân và cân bằng quyền lực. Việc tách quyền lực, được gọi là "separation of power", đạt được qua sự chia quyền lực thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp được thực hiện bởi cả hai viện của Quốc hội là Thượng nghị viện "House of Senate" và hạ nghị viện "House of Representatives". Quyền hành pháp thuộc về Tổng thống. Quyền tư pháp được xem là quyền lực thứ ba và bao gồm một hệ thống các tòa án được tổ chức trên cả nước, trong đó có Tòa án tối cao (Supreme Court) của Hợp chủng quốc. Tòa án tối cao là Tòa án hiến pháp liên bang. Theo quy định tại Điều 3, khoản 1 Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thì: "Quyền lực tư pháp của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Tòa án tối cao và những tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp". Các nhà lập hiến của Mỹ đã tạo ra một quyền lực tư pháp riêng để bảo vệ các quyền cơ bản và thể chế hóa liên bang về mặt pháp lý. Tòa án tối cao liên bang là thiết chế cao nhất của quyền tư pháp. Trên thực tế, qua các phán quyết nguyên tắc của mình Tòa án tối cao đã phát triển thành một nhân tố chính trị quan trọng trong hệ thống quyền lực của chính trị Mỹ. Trong hệ thống tư pháp, Tòa án tối cao là tòa án cấp phúc thẩm cao nhất. Trong một ít lĩnh vực khác nó thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm: Trong những khiếu kiện chống lại nhà ngoại giao và trong các trường hợp mà ở đó là một trong các Nhà nước bang. Đặc biệt theo Hiến pháp, Tòa án tối cao có thẩm quyền đối với các tranh chấp giữa một nhà nước bang và một công dân của một Nhà nước bang khác. Bên cạnh các tòa án liên bang chuyên ngành đối với các công việc thuế, hải quan, quân sự, ở Hoa Kỳ có trên 90 tòa án khu vực cấp liên bang (United States District Courts) như là cấp liên bang thấp nhất. Cấp trung gian bao gồm mười hai tòa phúc thẩm liên bang nói chung (United States Court of Appeal), được phân chia trên toàn quốc và giữa ba và chín bang tập hợp thành một tòa khu vực.Tài phán của các bang cơ bản thích hợp với mô hình này. Chín mươi phần trăm các vụ án hình sự và các vấn đề dân sự thông thường được quyết định bởi các tòa án bang (tòa án quốc gia). Trong hệ thống phân chia quyền lực của Mỹ, mỗi nhánh quyền lực độc lập với các nhánh quyền lực kia. Sự kiểm tra và cân bằng (Checks and Balances) được thực hiện để hạn chế quá nhiều quyền lực tập trung vào một trong các nhánh và cũng để bảo đảm các quyền và sự tự do của công dân. Tòa án tối cao liên bang có thể tuyên một đạo luật được ban hành bởi Quốc hội hoặc một chỉ thị của Tổng thống là vi hiến. Nhưng trên thực tế, sự độc lập của Tòa án tối cao liên bang bị ảnh hưởng mạnh bởi Tổng thống với quyền đề cử các viên chức tư pháp, nên Tòa án tối cao liên bang mặc dù là người gác canh hiến pháp vẫn có thể tuyên bố một quyết định của Tổng thống không vi hiến và cùng với đó ủng hộ chính sách của Tổng thống. Mặc dù có vị trí tối cao nhưng Tòa án tối cao liên bang trong việc thực thi quyền phán quyết của mình vẫn trông cậy nhiều vào sự sẵn sàng và hợp tác của quyền lực lập pháp và quyền lực hành pháp, bởi một bản án không được thi hành có thể không có hiệu lực. Như một ví dụ điển hình là việc Tòa án tối cao liên bang ngày 17/5/1954 ra phán quyết Brown vs. Board of Education of Topeka hủy bỏ sự phân biệt chủng tộc trong các trường học công ở Mỹ. Cùng với đó, phán quyết này hủy bỏ phán quyền đã tồn tại hơn 100 năm ở Mỹ về tổ chức các trường công lập dành riêng cho học sinh da đen và học sinh da trắng. Phán quyết này gặp phải sự phản đối kéo dài trong nhiều năm của các thống đốc, người soạn thảo luật và công chức giáo dục ở miền Nam nước Mỹ và vì vậy trên thực tế đã không phát huy được hiệu lực trong nhiều năm ở đây. Sự phụ thuộc của quyền tư pháp vào quyền lập pháp và quyền hành pháp cũng cho thấy trong thủ tục bãi nhiệm Tổng thống, vì trách nhiệm chủ yếu này thuộc về Thượng viện.
2.10. Cơ sở hiến pháp của quyền tư pháp ở Iran
Cộng hòa Hồi giáo Iran là quốc gia thuộc nhóm các nước hồi giáo. Tuy nhiên, quyền lực tư pháp ở nước này theo Điều 156 Hiến pháp cũng được coi là quyền lực độc lập, bảo vệ quyền của cá nhân và cộng đồng và có trách nhiệm thực hiện công lý.
2.11. Cơ sở hiến pháp của quyền tư pháp ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, mối quan hệ giữa quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp được ví như tim, động mạch và ven, trong đó quyền lực tư pháp giống như ven vậy. Quyền lực nhà nước ở Nhật Bản được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Quyền tư pháp theo Hiến pháp độc lập với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Điều 76 Hiến Pháp Nhật Bản quy định: "Toàn bộ quyền tư pháp được trao cho Tòa án tối cao và các tòa án cấp dưới được thành lập theo pháp luật…". Theo Điều 76 khoản 2 Hiến pháp, thẩm quyền quyết định thẩm phán không được trao cho một cơ quan hoặc chủ thể quyền hành pháp. Tất cả thẩm phán độc lập trong sự quyết định theo lương tâm của mình (Điều 76 khoản 3 Hiến Pháp). Các công tố viên đặt dưới thẩm quyền về trật tự tòa án của Tòa án tối cao (Điều 77 khoản 2 hiến pháp).
2.12. Tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở Hàn Quốc
Theo Điều 101 của Hiến pháp Hàn Quốc, quyền tư pháp thuộc về tòa án. Ngành tư pháp của Hàn Quốc bao gồm 6 loại: Tòa án tối cao, tòa thượng thẩm, tòa án quận, tòa án bằng phát minh sáng chế, tòa án gia đình và tòa án hành chính. Hệ thống tư pháp Hàn Quốc dựa trên 3 cấp xét xử: Tòa án quận, tòa thượng thẩm và Tòa án tối cao. Tòa án thực hiện thẩm quyền xét xử các vấn đề dân sự, hình sự, hành chính, bầu cử và các vấn đề tư pháp khác, đồng thời giám sát các vấn đề đăng ký bất động sản, đăng ký hộ tịch, sở hữu tài chính và cán bộ tòa án.
Tòa án hiến pháp là một bộ phận cơ bản của hệ thống hiến pháp. Tòa án hiến pháp được thành lập tháng 9/1988 để bảo vệ hiến pháp và những quyền cơ bản của con người thông qua việc thiết lập thủ tục xét xử đặc biệt đối với những vấn đề về hiến pháp. Tòa án được hiến pháp trao quyền giải thích hiến pháp và xem xét tính hợp hiến của tất cả các đạo luật, đưa ra các quyết định tư pháp để buộc tội hoặc giải thể một đảng chính trị hoặc đưa ra phán quyết đối với những tranh chấp về thẩm quyền xét xử và những khiếu nại về hiến pháp.
2.13. Quy định về quyền tư pháp trong hiến pháp của Trung Quốc
Hiến pháp của tư quy định ở Chương III, Đoạn VII (từ Điều 123 đến Điều 135) về tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, các tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nhà nước. Còn viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước giám sát các đạo luật (Điều 129). Ở Trung Quốc, các tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân được coi là các bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống cơ quan tư pháp. Các chủ thể khác trong hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm: Bộ Tư pháp, luật sư, Hội luật gia do Bộ Tư pháp quản lý, một số tổ chức phi chính phủ quan tâm đến việc quản lý tư pháp và cải cách pháp luật, các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật.
2.14. Tổ chức thực hiện quyền tư pháp ở Singapore
Singapore là một nước cộng hòa nghị viện và do quá khứ là thuộc địa của nước Anh nên rất nhiều bộ phận của hệ thống chính trị, trong đó có quyền lực tư pháp, được tổ chức theo mô hình của nước Anh. Cơ quan xét xử cao nhất ở Cộng hòa singapore là tòa án tối cao được tạo thành từ 3 "tiểu tòa án": Tòa dân sự, tòa án phúc thẩm và tòa án phúc thẩm đối với vụ án hình sự. Chánh án và các thẩm phán khác được chỉ định bởi Tổng thống. Ở Singapore , người ta không phân biệt tòa án dân sự, tòa án hình sự và tòa án hành chính.
3. Nhận xét
Qua viện dẫn và phân tích các quy định hiến pháp của một số nước về quyền tư pháp ở trên chúng ta thấy rằng, quyền tư pháp là một thứ quyền tồn tại gắn liền với quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp là biểu hiện sức mạnh của Nhà nước. Nhà nước nào cũng có quyền lực và có quyền tư pháp. Không phải chỉ đến khi phân quyền rồi mới có quyền tư pháp. Trong lịch sử, ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp có lúc thì tập trung, có lúc thì phân ra theo những cách thức tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau. Chỉ đến khi có ý tưởng phân quyền thì tính độc lập của quyền tư pháp mới được đề cao hơn. Như vậy, quyền tư pháp tồn tại khách quan, tất yếu trong mọi Nhà nước và trong mọi thể chế chính trị của Nhà nước, trong Nhà nước pháp quyền hay Nhà nước không pháp quyền. Trong các Nhà nước tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tam quyền phân lập, quyền tư pháp luôn được coi là quyền lực thứ ba bên cạnh quyền lập pháp và quyền hành pháp. Tuy nhiên, các cơ quan thực thi quyền tư pháp không được tổ chức và trao quyền đến mức tuyệt đối, tạo ra địa hạt quyền lực so với hai quyền còn lại như sự lầm tưởng của không ít người. Sự phân chia rành mạch về chức năng và nhân sự cùng với cơ chế kiểm soát, đối trọng giữa các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp có thể ngăn chặn, hạn chế được ở mức độ nhất định sự lạm quyền của giai cấp cầm quyền cũng như của các tổ chức, cá nhân được trao quyền đại diện thực hiện quyền lực nhà nước và qua đó đảm bảo chính trị cho nền dân chủ. Tuy nhiên, trên thực tế phân quyền ở một số quốc gia, trong những giai đoạn và hoàn cảnh nhất định cho thấy, quyền tư pháp vẫn chịu sự ảnh hưởng và chi phối của quyền hành pháp và quyền lập pháp. Trong các nhà nước do giai cấp tư sản nắm quyền, sự tham gia của người dân trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước rất hạn chế, bởi người dân không có đủ điều kiện và cơ hội tham gia vào chính quyền. Lợi ích của người dân lao động được đặt sau lợi ích của giai cấp và cá nhân người cầm quyền, và chỉ được chú ý trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác và ở mức độ duy trì được sự ổn định của xã hội.
Ở các nước tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, quyền tư pháp chỉ được thực hiện bởi một cơ quan là hệ thống tòa án. Tuy nhiên, mức độ phân quyền, trong đó có quyền tư pháp, ở các nước này không hoàn toàn giống nhau. Tại những nước sử dụng thông luật, án lệ được tạo ra từ các diễn giải luật của toàn án. Trong khi đó, ở các quốc gia có hệ thống pháp luật theo mô hình dân luật, tòa án có quyền diễn giải luật nhưng không được "tạo ra luật". Hệ thống cơ quan tư pháp ở nhiều nước được tổ chức theo cấu trúc và thẩm quyền khác nhau. Chẳng hạn, hiến pháp của Áo tuy mang dấu phân tách quyền lực nhưng các bang không có thẩm quyền trong lĩnh vực tư pháp. Trong các Nhà nước pháp quyền, quyền tư pháp được thực hiện bởi các thẩm phán có thẩm quyền độc lập. Sự độc lập của thẩm phán và quyền khởi kiện của công dân đối với các quyết định của quyền lập pháp và quyền hành pháp trước hết đảm bảo tính pháp quyền của Nhà nước. Không có quyền khởi kiện trước các tòa án độc lập thì không có Nhà nước pháp quyền.
Vì quyền tư pháp được đặt ra để giảm bớt sự lạm quyền của các nhánh quyền lực khác nên trong các cuộc thảo luận quốc tế, quyền tư pháp được nhìn nhận như là quyền phủ quyết "veto power". Theo tác giả Nicos C.Alivizatos, quyền phủ quyết này có thể được thực hiện một cách ràng mạch hoặc hàm ẩn. Quyền tư pháp được thực thi rõ ràng, chừng nào một quyết định của quyền lập pháp hoặc quyền hành pháp bị hủy bỏ. Trái lại, quyền tư pháp được thực hiện một cách hàm ẩn, khi một tòa án hiến pháp tuy về mặt hình thức không hủy bỏ một quyết định của quyền hành pháp hoặc quyền lập pháp, nhưng chỉ tồn tại hiệu lực trong một sự giải thích được quy định bởi tòa án hiến pháp, thậm chí mâu thuẫn với ý chí ban đầu của các thiết chế lập pháp và hành pháp.