Kết thúc loạt bài "Sản phẩm khoa học đi đâu về đâu?": Xã hội cần viên gạch, nhà khoa học đừng đưa ra thùng vôi
Bám chưa sát
GS Châu Văn Minh, chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết: "Hiện tại, một số đề tài KHCN nghiên cứu thành công nhưng không được ứng dụng rộng rãi trong thực tế, tôi nghĩ là chưa được ứng dụng thì đúng hơn. Vì đưa kết quả nghiên cứu vào thực tế cần rất nhiều yếu tố khách quan cũng như chủ quan, ví dụ như quy mô đầu tư, cơ chế chính sách, tiền vốn, cơ sở vật chất, quyền sở hữu trí tuệ, sự thống nhất đầu tư giữa các nhà khoa học và các nhà sản xuất".
TS Chu Tuấn Nhạ, chủ tịch Hội đồng Chính sách Khoa học và Công nghệ quốc gia cho rằng, nguyên nhân các đề tài không ứng dụng được vào thực tế bắt nguồn từ hai phía: KH&CN và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Về phía KH&CN, tiềm lực và chất lượng của đội ngũ về khoa học tuy có được nâng lên nhưng chưa được cao. Hoạt động khoa học chưa thật gắn bó mật thiết với yêu cầu đa dạng của sản xuất kinh doanh đời sống. Về phía các doanh nghiệp, họ có nhu cầu và "buộc" phải ứng dụng KH&CN khi hoạt động trong môi trường kinh tế thị trường, cạnh tranh lành mạnh. Một sản phẩm muốn có tính cạnh tranh cao thì phải luôn luôn đổi mới để có chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đẹp, muốn vậy phải đổi mới công nghệ. Muốn phát triển thị trường công nghệ chúng ta cần phải chú ý đến 4 yếu tố: Đẩy mạnh cầu về khoa học; đẩy mạnh cung về công nghệ; các nhà khoa học phải có khả năng và tính tự chủ cao, nắm bắt được nhu cầu của thị trường; phát triển các hình thức thông tin dịch vụ, môi giới để làm cầu nối giữa các nhà khoa học và doanh nghiệp.
Cần xem lại quy trình xây dựng đề tài nghiên cứu
TS Nguyễn Văn Lạng, thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ, kiêm trưởng ban khu CN cao Hòa Lạc cũng khẳng định, để ra một sản phẩm thành hàng hóa là một quá trình dài từ ý tưởng đến nghiên cứu tạo ra sản phẩm. Nhưng sản phẩm có thành hàng hóa không lại phụ thuộc vào xã hội. Nếu nhà khoa học làm ra sản phẩm mà xã hội không yêu cầu, có thể sản phẩm đó được hội đồng khoa học đánh giá rất cao nhưng xã hội lại không thừa nhận. Ví dụ, xã hội cần viên gạch, nhà khoa học lại đưa ra thùng vôi. Làm kiểu đấy, sản phẩm sẽ không bao giờ được chấp nhận.
TS Lạng quả quyết, muốn cho sản phẩm của các nhà khoa học trở thành hàng hóa thì ngay từ lúc thực hiện phải xác định sản phẩm nhằm vào đối tượng nào. Khách hàng có thể là tổ chức, chính phủ, doanh nghiệp hoặc người dân. "Xét cho cùng chúng ta phải xem lại quy trình tổ chức xây dựng các dự án nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu để tạo ra sản phẩm khoa học”.
GS Châu Văn Minh cho rằng, “để khắc phục tình trạng một số đề tài chưa được đưa vào ứng dụng rộng rãi trong thực tế, Nhà nước cần tập trung xây dựng chiến lược tổng thể phát triển khoa học công nghệ, có chính sách đồng bộ như từ khâu xét duyệt, tuyển chọn đề tài, tính thực tiễn của những đề tài. Nhà nước cần khuyến khích, động viên tạo điều kiện cho các nhà khoa học có môi trường nghiên cứu như trang thiết bị, phòng thí nghiệm, vật tư kỹ thuật,... Cần có những giải pháp về lãnh đạo và quản lý đề tài các cấp, lãnh đạo việc xây dựng môi trường cho nhà khoa học làm việc, một môi trường làm việc tốt trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Phải có chính sách đồng bộ, mở rộng thông tin, quảng bá sản phẩm, ưu tiên phát triển ban đầu.
TS Lạng lấy ví dụ cụ thể: Khu CN cao Hòa Lạc đang nghiên cứu và đưa ra thị trường một số sản phẩm khoa học có hàm lượng chất xám cao. Ngay từ đầu, các nhóm nghiên cứu đã được định hướng làm theo các nhu cầu của xã hội. Đất nước ta có nhiều dòng sông ô nhiễm, họ làm các làm sản phẩm về xử lý nước, muốn quảng bá du lịch Việt Nam , họ có phần mềm du lịch bằng công nghệ 3D... Không bán được, nghiên cứu chỉ mãi mang tính hàn lâm.








