Kết quả 10 năm triển khai thực hiện việc chuyển đổi sản xuất tại các vùng ruộng trũng sang sản xuất đa canh
Ngay sau khi có chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam đã xây dựng Đề án Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên vùng ruộng trũng và triển khai tới tất cả các huyện, thị xã (nay là thành phố). Đề án đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và nhân dân phấn khởi đón nhận và tích cực triển khai. Các huyện, thành phố chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện, xây dựng mô hình thí điểm năm 2001 và đồng loạt triển khai ở hầu hết các xã, thị trấn các năm sau. Đề án đã hướng dẫn nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện và quy định rõ quy mô, diện tích xây dựng cũng như quyền lợi, trách nhiệm của hộ tham gia chuyển đổi. Theo đó, hộ tham gia chuyển đổi phải có diện tích từ 1 ha trở lên, có tiềm lực kinh tế, lao động và tự nguyện chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cam kết thực hiện đúng nội dung quy định của Đề án. Các hộ được phép xây dựng nhà tạm, chuồng trại, nhà kho, sân phơi, đắp bờ, đào ao nuôi thủy sản, được tham quan mô hình, tập huấn kỹ thuật, được hỗ trợ giống cá và một phần kinh phí ban đầu với số tiền là 1.500.000 đồng/ha (các dự án thực hiện giai đoạn 2001 – 2005)… Có 3 hình thức sản xuất được áp dụng, đó là:
- Làm vườn – Đào ao nuôi thủy sản – Xây dựng chuồng trại chăn nuôi (VAC): đây là loại hình được áp dụng phổ biến và cho hiệu quả kinh tế cao nhất nhờ bố trí hợp lý giữa chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng cây ngắn ngày, cây ăn quả, cây cảnh… Diện tích ao nuôi thường chiếm 60 – 70%, diện tích bờ ao và làm vườn khoảng 20 – 30%, diện tích chuồng trại từ 10 – 20%. Nhờ bố trí cơ cấu ao nuôi, chuồng trại, trồng cây hợp lý nên hình thức sản xuất này đã khai thác được lợi thế, tiềm năng của vùng, tận dụng được phụ phẩm, thức ăn thừa, chất thải trong chăn nuôi, trồng trọt để nuôi thủy sản, từ đó giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, đem lại lợi nhuận cao cho người sản xuất. Thu nhập tại các mô hình này đạt từ 150 – 200 triệu đồng/ha/năm, có hộ đạt 500 triệu đồng/ha/năm, tiêu biểu như các hộ: ông Nguyễn Bùi Mạnh, Trần Khắc Kiều xã Vũ Bản huyện Bình Lục; ông Nguyễn Xuân Đáng, Nguyễn Văn Hạnh xã Thanh Lưu huyện Thanh Liêm; Đỗ Văn Tùng xã Duy Hải huyện Duy Tiên… Tuy nhiên, hình thức sản xuất này đòi hỏi chủ đầu tư phải có nguồn vốn lớn, có khả năng tiếp thu, ứng dụng tiến bộ, khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Công thức này được áp dụng ở tất cả các huyện, thị xã, song được áp dụng phổ biến và cho hiệu quả nhất ở các huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm.
- Làm vườn – Đào ao nuôi thủy sản – Xây dựng chuồng trại chăn nuôi và trồng lúa (VACR). Hình thức sản xuất này cho thu nhập thấp hơn vì phần lớn diện tích thường vẫn dành cho trồng lúa, diện tích mặt nước ít, không đảm bảo điều kiện nuôi thâm canh thủy sản. Những hộ có năng lực tài chính thấp, chăn nuôi quy mô nhỏ áp dụng công thức này tỏ ra khá phù hợp do nhu cầu vốn đầu tư thấp. Công thức này được áp dụng nhiều ở các xã Thị Sơn, Kim Bình huyện Kim Bảng; Tiên Ngoại , Đọi Sơn huyện Duy Tiên; Thanh Phong, Thanh Hương, Thanh Nguyên huyện Thanh Liêm; Hưng Công, Đồng Du huyện Bình Lục; Văn Lý, Chính Lý huyện Lý Nhân…
- Đắp bờ bao nuôi cá kết hợp với trồng sen – Xây dựng chuồng trại chăn nuôi quy mô nhỏ. Mô hình này được áp dụng ở những vùng đất thùng đào ven đê, đầm hồ vùng núi huyện Thanh Liêm, Kim Bảng, gắn với du lịch sinh thái. Công thức này áp dụng phổ biến ở các xã: Mộc Nam, Chuyên Ngoại huyện Duy Tiên; Ba Sao huyện Kim Bảng; Nguyên Lý, Đạo Lý, Công Lý huyện Lý Nhân…
Với hơn 2.700 ha diện tích, hàng năm các khu ruộng trũng được chuyển đổi này sản xuất ra khoảng 7.000 – 8.000 tấn thủy sản, bằng 45 – 50% sản lượng NTTS toàn tỉnh; 15 – 20 ngàn tấn thịt hơi, bằng 25 – 30% sản lượng thịt hơi xuất chuồng toàn tỉnh, giải quyết việc làm cho hơn 6.000 lao động với thu nhập 15 – 20 triệu đồng/năm. Ngoài ra còn sản xuất ra hàng chục ngàn tấn lương thực (chủ yếu là thóc), rau màu, hoa quả. Có nơi còn trồng hoa, cây cảnh… cho thu nhập cao như vùng chuyển đổi các xã Phù Vân, phường Lê Hồng Phong của thành phố Phủ Lý; Kim Bình huyện Kim Bảng; Liêm Tiết huyện Thanh Liêm…
Các khu ruộng trũng chuyển đổi đã từng bước hình thành nên vùng sản xuất trang trại, có nơi đã hình thành nên vùng thủy sản xã Khả Phong, huyện Kim Bảng diện tích 125 ha; xã Đức Lý, huyện Lý Nhân 73 ha; xã Mỹ Thọ, huyện Bình Lục 93,6 ha, xã Thanh Hải huyện Thanh Liêm 90 ha… Các hình thức sản xuất này rất phù hợp với xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa hiện nay. Cũng từ các khu chuyển đổi ruộng trũng đã hình thành khoảng 500 trang trại sản xuất đa canh với tổng diện tích đất sử dụng 1.100ha, trong đó có khoảng 650 ha diện tích mặt nước, hàng năm sản xuất ra 3.000 – 4.000 tấn thủy sản và hàng ngàn tấn thịt hơi xuất chuồng, cung cấp cho nhu cầu thực phẩm của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Sản xuất tại các trang trại đã thực sự đem lại hiệu quả, có vai trò và vị trí quan trọng trong phát triển của ngành chăn nuôi, thủy sản trên địa bàn tỉnh.
Hiệu quả tại các khu ruộng trũng chuyển đổi đã được khẳng định, tuy nhiên trong quá trình triển khai, chỉ đạo và thực hiện trong quá trình triển khai, chỉ đạo và thực tế sản xuất đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:
- Việc chỉ đạo ở một số địa phương chưa kiên quyết, chưa đúng hướng dẫn của Đề án: diện tích canh tác bình quân của các hộ còn thấp, nhiều hộ diện tích dưới 0,5 ha, tỷ lệ diện tích ao nuôi, chuồng trại, ruộng cấy lúa chưa hợp lý dẫn đến đầu tư thâm canh không đạt hiệu quả; một số hộ xây dựng công trình nhà kho, nhà tạm, sân phơi vượt quy định cho phép; còn có hiện tượng tự ý chuyển nhượng hợp đồng giữa các hộ, phá vỡ quy hoạch, gây khó khăn cho công tác tổ chức, quản lý.
![]() |
- Giao thông, thủy lợi một số vùng nuôi chưa đảm bảo yêu cầu. Nguồn nước cấp cho NTTS một số vùng nuôi không chủ động thường xuyên bị ô nhiễm, nhất là các vùng nuôi lấy nước từ nguồn nước sông Nhuệ, sông Châu Giang.
- Năng lực tài chính, trình độ sản xuất của đa số các hộ còn thấp nên hiệu quả, giá trị sản xuất còn thấp, chưa khai thác được lợi thế, tiềm năng của vùng.
- Thời gian thuê đất ngắn, hầu hết đến năm 2013 nên các hộ không dám đầu tư, mở rộng sản xuất dẫn đến hiệu quả sản xuất chưa cao. Những vùng nuôi các hộ nhận khoán từ đất cơ bản của các hộ dân càng không yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất do lo lắng bị đòi đất sau năm 2013.
- Cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất còn ít, người sản xuất khó tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng, nhất là các nguồn vốn vay ưu đãi.
- Kinh phí hỗ trợ cho công tác đào tạo, tập huấn trang bị kiến thức, khoa học công nghệ mới cho nông dân các vùng ruộng trũng chuyển đổi còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Những hộ phát triển chăn nuôi quy mô lớn trong vùng, do diện tích nuôi thủy sản quá ít nên không khai thác hết lượng chất thải, thức ăn thừa trong chăn nuôi để nuôi cá, gây lãng phí và làm ô nhiễm nguồn nước, thủy sản nuôi bị nhiễm bệnh, hiệu quả kinh tế không cao. Những hộ cấy lúa cả 2 vụ hiệu quả càng thấp hơn do tưới tiêu không chủ động, thường bị ngập úng, sâu bệnh… dẫn tới năng suất thấp.
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên cần phải có một số giải pháp để thúc đẩy phát triển sản xuất tại các khu ruộng trũng chuyển đổi, cụ thể:
- Các đơn vị liên quan, hàng năm hỗ trợ giống, khoa học công nghệ, kỹ thuật thâm canh các đối tượng vật nuôi, cây trồng mới, giá trị kinh tế cao, trước mắt cho các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, các vùng ruộng trũng chuyển đổi; UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tỉnh hướng dẫn thủ tục hành chính để các chủ trang trại, gia trại được vay vốn ưu đãi theo chính sách hiện hành.
- Sở Nông nghiệp & PTNT tham mưu giúp UBND tỉnh đề nghị Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung trên cơ sở nâng cấp các vùng ruộng trũng chuyển đổi hiện có, tạo điều kiện áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất theo hướng thâm canh tập trung, tạo tiền đề xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa an toàn vệ sinh thực phẩm; khẩn trương hoàn thành Quy hoạch phát triển nông nghiệp giai đoạn 2011 – 2020 để UBND các huyện, thành phố có cơ sở xây dựng quy hoạch, kế hoạch của địa phương phù hợp với quy hoạch chung, giúp sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, bền vững.
- Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Sở Xây dựng tham mưu giúp UBND tỉnh hướng dẫn UBND các huyện, thành phố xem xét, giao quyền sử dụng đất ổn định cho các hộ sản xuất tại quỹ đất 5% do UBND xã quản lý; xem xét cho phép các hộ được xây dựng nhà chắc chắn để người dân yên tâm sản xuất.
- UBND các huyện, thành phố chỉ đạo Phòng Nông nghiệp & PTNT chủ trì, phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường lập kế hoạch đo đạc, thiết kế bản đồ hiện trạng các vùng ruộng trũng chuyển đổi để thuận tiện cho việc quản lý, tổ chức sản xuất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận trang trại để các hộ có điều kiện vay vốn ngân hàng, yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất; tiếp tục rà soát, cho chuyển đổi, cải tạo các vùng đầm lầy, đất thùng đào, đất làm gạch… theo quy hoạch nhằm khai thác tiềm năng đất đai của địa phương.
- UBND các xã, thị trấn chỉ đạo, đôn đốc, giám sát thực hiện việc tiếp tục chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích chăn nuôi, thủy sản, giảm diện tích trồng lúa, trồng sen tại các vùng ruộng trũng đã chuyển đổi nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn; vận động nhân dân chuyển đổi diện tích ổn định cho nhau tại quỹ đất cơ bản của dân để các hộ yên tâm đầu tư sản xuất./.









