Kết chạ ở Miêu Nha - Ngọc Mạch
Miêu Nha - Ngọc Mạch kết đồng
Tình ông nghĩa cháu, mặn nồng bao năm.
(Ca dao)
Miêu Nha (Kẻ Ngà) xã Tây Mỗ, thờ Lý Bí, còn Ngọc Mạch (Kẻ Ngọc) xã Xuân Phương, thờ Lý Nhã Lang, con trai của Lý Phật Tử, cháu của vua Lý Bí. Hai làng từ xa xưa vẫn có tục rước kiệu sang thăm nhau vào dịp hội xuân.
Làng Miêu Nha thờ vị anh hùng dân tộc Lý Bí (Lý Nam Đế). Đây là nơi Lý Bí hành quân qua (theo đường Cầu Giấy, Kẻ Vòng, Nhân Mỹ tới Cầu Ngà, đến Đồng Múa rồi về Ruộng Chợ là điểm hội quân). Đến ngày 12 tháng giêng, Lý Bí rời khỏi Miêu Nha nên dân làng cũng lấy ngày ấy làm lễ hội. Tại đình còn tấm bia đá niên hiệu Chính Hòa năm thứ 3 (1682). Có thể đây là năm khởi dựng đình (theo truyền thuyết thì sau khi Lý Nam Đế mất được dân làng lập đền thờ).
Đình xây dựng trên nền cao 0,6m, đi vào có 4 cột đồng trụ. Tiền tế có ba gian, hai dĩ. Các bộ vì nóc chạm trổ tỉ mỉ. Trên các con rường là hình lá thân to tạo thành hình hổ phù. Trên các cột xà có hoành phi, câu đối và hai cuốn thư ghi bài châm (*) ca ngợi công đức Thành hoàng. Đại đình năm gian, hai dĩ, được nối liền bằng một ống muống hình giỏ cua. Đại đình xây tường ba mặt, mặt trước để trống, các vì kèo có chạm trổ, bức cốn gian giữa chạm rồng chầu - hổ phù, nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII - XVIII. Trong đình có khám thờ sơn son - thếp vàng chạm long, ly, quy, phượng.
Miếu xây dựng muộn hơn, khoảng đầu thế kỷ XX. Miếu hình chữ Nhị, cách đình hơn 200m, gồm tiền tế và hậu cung, phía trước có ao bán nguyệt, tường đá bao quanh. Nhà tiền tế ba gian, hậu cung ba gian, kiến trúc không có gì đặc biệt. Trong miếu là một số bàn thờ nhỏ đặt long ngai, bài vị và một số tự khí khác.
Những di vật trong đình và miếu có: bia đá, 27 đạo sắc phong, sớm nhất là năm Vĩnh Khánh thứ hai (1730); một cuốn Ngọc phảvề Lý Nam Đế, hương án, sập gỗ chân quỳ; kiệu bát cống và hai kiệu long đình chạm khắc thời Lê; một đôi ngựa gỗ; năm hoành phi; hai cuốn thư khảm trai và 15 đôi câu đối ca ngợi công đức của vua và vẻ đẹp quê hương. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng ngày 21-1-1989.
Đình Ngọc Mạch là một kiến trúc khá hoàn hảo gồm phương đình, đại bái, hậu cung, tả vu, hữu vu.
Phương đình có mặt bằng vuông, hai tầng tám mái, đề tài chạm khắc ở đây chủ yếu là tứ linh, tứ quý. Sau là đại bái rộng năm gian, hai dĩ. Về kết cấu của đại bái vẫn tuân thủ các quy ước như các công trình kiến trúc truyền thốngđương thời, riêng đề tài chạm khắc trên các bức cốn khá độc đáo với những cảnh như người cưỡi mây đánh đàn, người cưỡi ngựa đánh đàn, người đi cầy, cảnh văn võ bá quan, uống rượu, thuyền bè, sông núi, long mã. Đề tài tứ linh, tứ quý ít xuất hiện. Các bức chạm được thể hiện khá sinh động tạo nên sự độc đáo ít thấy ở những ngôi đình khác.
Đình Ngọc Mạch còn giữ được nhiều đồ vật quý như cửa võng, kiệu bát cống thế kỷ XVIII, nhang án, ngai thờ, bộ bát bửu thế kỷ XIX.
Đôi câu đối ghi:
Giữ xã tắc cứu sinh linh, nhiều đời bao phong ghi sử sách
Cầu an khang mong hòa cốc, trước đình hiển hiện sáng thanh danh.
(Bản dịch)
Cảnh quan đình Ngọc Mạch có nhiều cây cổ thụ hòa với mái đao cong vút của kiến trúc tạo nên một vẻ đẹp đơn sơ, cổ kính. Đình được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật ngày 22-4-1992.
Bản thần tích lưu ở đình kể:
Vương họ Lý tên húy là Lang người ấp Thái Bình (nay thuộc xã Tiền Phong huyện Phổ Yên - Thái Nguyên), là con của Hậu Lý NamĐế. Mẹ là phu nhân người đất Châu Chàng được Nam Đế yêu thương. Bà nằm mộng thấy mình nuốt một viên ngọc trắng, từ đó mang thai. Vào dịp về thăm cha mẹ đẻ thì sinh ra Vương tại quê nhà. Kịp khi lớn lên, Vương có dung mạo hùng vĩ, trí dũng tuyệt vời. Lúc ấy, Lý Nam Đế bị quân Lương đánh thua chạy về động Khuất Liêu. Biết mình tuổi cao sức yếu khó có thể kéo dài cuộc chiến đấu, Lý Nam Đế bèn trao lại quyền giữ nước điều binh cho tướng của mình là Triệu Quang Phục. Quang Phục sau khi đánh đuổi được quân Lương liền chiếm ngôi báu tự xưng là Triệu Việt Vương.
Lại nói, anh trai của Tiền Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo khi trước bị quân Lương đánh thua phải chạy vào động Dã Năng, gần Ai Lao. Sau Thiên Bảo tự lập làm Vua, xưng là Đào Lang Vương. Thiên Bảo mất, quân lính suy tôn Phật Tử lên thay. Sau khi lên ngôi, Phật Tử có chí muốn khôi phục lại cơ đồ bèn điều động binh sĩ lấy Vương làm tướng tiên phong đem quân xuống phía đông đánh nhau với Triệu Việt Vương ở huyện Thái Bình.
Vương đem quân xông trận chỉ nhìn thấy Triệu Việt Vương đứng trước trận đầu đội mũ đâu mâu. Hai bên giáp chiến, quân của Vương thua chạy phải rút lui. Vương đoán là Triệu Việt Vương có thuật lạ, bèn sai người đến cầu hòa. Triệu Việt Vương bằng lòng cầu hòa bèn cắt ranh giới là bãi Quần Thần (nay là hai làng Thượng Cát và Hạ Cát huyện Từ Liêm - Hà Nội).
Lại nói Triệu Việt Vương có người con gái nhan sắc xinh đẹp, kén chọn mãi chưa đi lấy chồng là Cảo Nương. Vương bèn đến cầu hôn với Triệu Vương. Triệu Vương bằng lòng cho Vương ở rể. Vương tuy sống trong cảnh yêu thương nhưng chí khôi phục xã tắc vẫn không thay đổi, nhân đó nói với Cảo Nương rằng: “Vương phụ có phép thần gì vậy?”, Cảo Nương bèn lấy trộm móng rồng của cha đưa cho Vương xem. Vương ngầm tráo đổi móng rồng đó đưa về cho cha là Lý Phật Tử. Phật Tử được móng thần bèn đem quân đánh úp Triệu Việt Vương lấy lại nước. Phật Tử xưng hiệu là Hậu Lý Nam Đế.
Đến cuối đời Lý, Vương ngầm trở về quê mẹ và đổi từ họ Lý thành họ Lã, theo họ mẹ. Một hôm ra tắm ở bến sông, bỗng Vương bắt được một con cá xanh, đem về nhà mổ ra thấy có thanh thần đao. Từ đó Vương có tài phi thăng biến hóa tùy theo ý muốn.
Vào ngày 18-10 trời trong đất sáng, Vương cùng mẹ cưỡi xe đi chơi ở giữa khu gò lớn bên cạnh nơi đất cũ, bỗng thấy một đóa mây trắng từ giữa gò vụt bay ra, Vương rút thanh đao thần ném sang bên bờ bắc con sông. Vương và mẹ vụt biến mất. Nơi hóa đó ở trong Cấm Lăng nay vẫn còn.
Từ đấy, uy thanh vang dội nhiều lần hiển ứng, bản xã nhân đó mà lập đền thờ. Đến năm Thiên Phúc đời vua Lê Đại Hành (980), nhân khảo khóa bách thần, thấy ngài hiển ứng, bèn gia phong là “Phụ Dực uy dũng Phi hiển Chiêu cảm”và thăng làm Thượng đẳng Thần. Từ đó về sau, các triều đại đều có sắc phong.
Bên cạnh Lã Nam Đế, đình Ngọc Mạch ngày nay còn phụ thờ hai vị công chúa là Hoàng hậu Thánh đế - Quốc mẫu Tối linh Công chúa cùng Phi nhân Phương Dương Tối linh Công chúa và một vị phúc thần là Thái phó Lãng Trung hầu Nguyễn Duy Thưởng.
Theo tục lệ, ngày 10 tháng giêng, đại diện quan viên Ngọc Mạch mang mâm trầu cau đặt trên hương án có tàn lọng che khênh sang đình Miêu Nha. Ngày 12 tháng giêng, đoàn rước gồm hơn 200 người với sư tử, rồng, cờ, tàn, tán, lọng, kiệu, long đình, bát âm, bát bửu... sang Miêu Nha, ngựa gỗ được kéo đi cùng.
Cách đình Miêu Nha khoảng 500m, sư tử, rồng múa vờn cùng tiếng trống dập dồn. Đoàn rước kiệu của Miêu Nha ra đón nhập cuộc rồi rước lên miếu, sau quay về đình. Chiếu hoa được trải để mời khách. Nhạc bát âm rộn ràng, trống giao hảo của hai làng hòa nhịp. Lúc đến “Tiền chủ hậu khách”, lúc về “Tiền khách hậu chủ”, khi tế lễ, cỗ ngày hội có con lợn 50kg và một mâm xôi trắng nếp hoa vàng. Văn tế trước ban thờ đọc: “Mong cho nước thịnh, dân an, dân hai làng bình an vô sự, làm ăn phát đạt...”.
Vào tháng sau, ngày 10-2 và 12-2, làng Miêu Nha lại đưa lễ và rước kiệu sang Ngọc Mạch. Sân đình Ngọc Mạch còn tưng bừng hơn vì có tới 18 đoàn đại biểu cùng thờ Lý Lang ở Sơn Tây về dự. Trò hội có kéo co, chọi gà, đá bóng...
(*) Một thể văn cổ