“Kẻ sĩ” ngày nay phải thế nào?
Tuy nhiên, tham khảo định nghĩa về trí thức của J.P.Sartre: “Trí thức là người làm những việc chẳng ăn nhập gì với họ, họ “xớ rớ” vào những chuyện chẳng liên quan gì tới họ, ấy là vì họ xem đó là chuyện của chính họ, chuyện không phải của họ mà họ thấy là của họ, cái thấy đó làm họ trở thành trí thức”, GS Diệu cho rằng trong tiếng Việt có chữ “kẻ sĩ” là thích hợp nhất.
“Kẻ sĩ” là những người có học vấn, có khí tiết, có thể bị giết chứ không chịu nhục, dẫu có lâm vào cảnh hàn vi, oan trái vẫn không nguôi hướng tới những sự nghiệp cứu dân, giúp đời. Dù là “intellectuel” ở phương Tây hay là “kẻ sĩ” ở phương Đông, người trí thức ở đâu, thời điểm nào cũng là người có học vấn cao và có ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với sự tiến bộ của xã hội mà mình đang sống. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên lại cho rằng: “Hiện nay ở Việt Nam có những trí thức có nhân cách kẻ sĩ, nhưng rất ít người có tư cách trí thức”. Theo ông Nguyên, chất “kẻ sĩ” là sự khẳng khái và bất chấp, bộc lộ rõ và có tác động mạnh về mặt đạo đức. Còn tư cách trí thức thì khác, đó là sự suy nghĩ độc lập và dám đi đến cùng trong suy nghĩ của mình trên cơ sở học vấn tri thức và khả năng tư duy khoa học, không chịu hệ lụy và ràng buộc nào từ ngoại cảnh dù nhân danh gì. Karl Marx cũng đã coi “trí thức là người nói sự thật, phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc trước xung đột với quyền lực, bất cứ quyền lực nào”.
Dù có thể còn những khác biệt trong cách dùng từ hay định nghĩa, nhưng trí thức thời nào cũng vậy, đều có một tính cách chung là “tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ; độc lập tư duy; hoài nghi lành mạnh; và tự do sáng tạo” – như nhận xét của GS Chu Hảo. Bất kỳ một xã hội văn minh nào cũng phải có một tầng lớp ưu tú mà ngày nay được xem là những người có tư cách trí thức. Người xưa từng đúc kết “hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vượng thì quốc gia hùng mạnh...”, để chỉ rõ vị trí và tầm quan trọng của tầng lớp ưu tú này trước sự hưng vong của xã tắc.
Các nghiên cứu từ Đông sang Tây đều chỉ ra rằng, để có thể phát triển một tầng lớp trí thức đúng nghĩa và đúng tầm với thời đại, bao giờ cũng cần có một môi trường thuận lợi khuyến khích tính độc lập trong tư duy của người trí thức. GS Phan Đình Diệu cho rằng “một người muốn thành trí thức hoặc muốn giữ được vị trí một trí thức phải thường xuyên độc lập tư duy và đổi mới tư duy về mọi vấn đề chuyên môn mà anh ta quan tâm cũng như các vấn đề nóng bỏng của xã hội của đất nước; đồng thời phải được tự do sáng tạo, luôn tham gia vào những sinh hoạt nhằm trao đổi, thảo luận, tranh luận về những đề tài trong đời sống xã hội; có ý kiến phê phán, phản biện đối với các chủ trương, giải pháp của nhà nước mà xã hội đang quan tâm... Đó là những quyền tự do, dân chủ của mọi công dân mà Hiến pháp nước ta cũng như các công ước quốc tế mà nước ta tham gia đã ghi khá đầy đủ: quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo, tự do về ý kiến và ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội họp và lập hội hòa bình”...
Thái độ tôn trọng của nhà nước đối với tầng lớp trí thức không phải là thái độ của cá nhân lãnh đạo dành cho một vài người. Đó phải là những cơ sở luật pháp để đảm bảo cho mọi công dân đều được hưởng những quyền tự do dân chủ đã được ghi trong Hiến pháp cũng như trong các công ước quốc tế mà nước ta đã tham gia; đảm bảo cho người trí thức có một “không gian an toàn” cho tư duy độc lập và tự do sáng tạo của mình. Từ vị thế này, trí thức mới có thể tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội và hưng vong của quốc gia.








