Hướng đến nền công nghiệp thân thiện với môi trường
Sự phát triển của các KCN ở hai đầu đất nước cho thấy những kết quả đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, áp lực về môi trường từ sự phát triển công nghiệp cũng không nhỏ. Quá trình phát triển các KCN đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải, nước thải và khí thải công nghiệp.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, cuộc sống của người dân được cải thiện. Nhưng kèm với những mặt tích cực thì Thừa Thiên Huế đang phải đối mặt với vấn đề không nhỏ là ô nhiễm môi trường do chất thải, nước thải và khí thải công nghiệp.
Tỉnh Thừa Thiên Huế đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, cuộc sống của người dân được cải thiện. Nhưng kèm với những mặt tích cực thì Thừa Thiên Huế đang phải đối mặt với vấn đề không nhỏ là ô nhiễm môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí, ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường đất, vệ sinh môi trường trong các cơ sở sản xuất… Ô nhiễm đang là vấn đề bức xúc đối với môi trường KCN, có tác động xấu đối với sức khỏe con người, ảnh hưởng xấu đến các hệ sinh thái và gây biến đổi khí hậu. Tốc độ công nghiệp hóa mạnh mẽ càng làm tăng thêm các nguồn gây ô nhiễm môi trường.
Cho đến hết năm 2010, trên địa bàn toàn tỉnh có 6 KCN là KCN Phú Bài (giai đoạn I, II, III, IV), Phong Điền, Tứ Hải, La Sơn, Phú Đa, và Quảng Vinh. Hiện tại có 2 KCN là Phú Bài và Phong Điền đã thu hút được hơn 50 dự án sản xuất công nghiệp. Xét về quy mô, các KCN tại Thừa Thiên Huế đang trong quá trình phát triển, áp lực môi trường vẫn nằm trong khả năng chịu đựng của môi trường. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển hợp lý, bền vững trong tương lai, ngay từ lúc này cần phải có những giải pháp thích hợp để quản lý môi trường trong các KCN.
Trong giới hạn của bài viết, chúng tôi xin đề cập đến các giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất, hướng đến một nền công nghiệp sạch, thân thiện với môi trường hơn.
Trước hết, đối với các cơ quan quản lý về nhà nước, cần tăng cường thực thi pháp luật bảo vệ môi trường KCN. Từ đó thường xuyên có các hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát chất lượng môi trường KCN, cần triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường chất lượng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sau khi đánh giá tác động môi trường và xác nhận cam kết bảo vệ môi trường. Phối hợp giữa Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban quản lý các KCN, Phòng Cảnh sát Môi trường trong công tác thanh tra, kiểm tra. Kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Cương quyết đình chỉ hoạt động nếu doanh nghiệp để tình trạng ô nhiễm kéo dài; truy tố hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường KCN. Từ đó thường xuyên có các hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát chất lượng môi trường KCN, cần triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường chất lượng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường, cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sau khi đã đánh giá tác động môi trường và xác nhận cam kết bảo vệ môi trường. Ban quản lý các KCN, Phòng Cảnh sát Môi trường trong công tác thanh tra, kiểm tra. Kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Cương quyết đình chỉ hoạt động nếu doanh nghiệp để tình trạng ô nhiễm kéo dài; truy tố hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng. Một điều nữa là cần quan tâm đến hiệu quả áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường các KCN. Cần phát huy tối đa vai trò của công cụ kinh tế trong quản lý môi trường KCN nhằm nâng cao hiệu quả, cải thiện chất lượng môi trường với chi phí thấp nhất. Điều này rất quan trọng trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn chế.
Cung cấp các công cụ thông tin trong bảo vệ môi trường KCN cũng là việc cần bàn đến. Công khai công tác bảo vệ môi trường của các KCN, các doanh nghiệp trong các KCN cũng như các doanh nghiệp nằm ngoài KCN nhằm tạo sức ép đối với các doanh nghiệp vi phạm, gây ô nhiễm môi trường và động viên, khuyến khích những doanh nghiệp thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường. Ngoài ra, phải thực hiện thường xuyên việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường đến tận doanh nghiệp, công nhân trong các KCN.
Thứ hai, đối với các doanh nghiệp trong các KCN phải đẩy mạnh việc triển khai bảo vệ môi trường. Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống xử lý chất thải tập trung của KCN: Theo Thông tư 08/2009/TT-BTNMT các KCN đang hoạt động phải có nhà máy xử lý nước thải tập trung. Các hạng mục này cần được thiết kế đúng, duy trì hoạt động ổn định và hiệu quả trong suốt quá trình hoạt động của các KCN. Các doanh nghiệp trong KCN phải thực hiện nghiêm túc việc xử lý chất thải. Tất cả các doanh nghiệp trong KCN có phát sinh nước thải cần phải xử lý sơ bộ đạt các tiêu chuẩn đầu vào của hệ thống xử lý nước thải tập trung trước khi thải vào hệ thống thu gom nước thải của KCN. Trường hợp KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung thì từng doanh nghiệp phải xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn cho phép trước khi thải ra ngoài. Các doanh nghiệp có phát sinh khí thải phải có hệ thống xử lý khí thải đạt quy chuẩn Việt Nam trước khi xả thải.
Ngoài ra cần thực hiện nghiêm túc chế độ tự quan trắc và báo cáo môi trường. Chủ đầu tư và các doanh nghiệp trong các KCN thực hiện nghiêm túc việc tự quan trắc theo đúng cam kết và tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch. Việc quản lý môi trường, xử lý nước thải trong các khu công nghiệp của tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay theo hướng xử lý cuối đường ống nhưng mang lại nhiều điểm bất lợi và nguy cơ cho sự phát triển bền vững. Hiện nay, tại hầu hét các nước phát triển trên thế giới, chiến lược bảo vệ môi trường và quản lý chất thải đều theo thứ tự ưu tiên sau: (1) ngăn ngừa, giảm thiểu phát sinh chất thải tại nguồn (bằng cách áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn); (2) tái sinh, tái sử dụng chất thải (trao đổi chất thải); (3) xử lý hợp lý phần chất thải còn lại (không thể tái sinh, tái sử dụng) trước khi thải ra môi trường; (4) thải bỏ và chôn lấp các chất thải đã xử lý một cách hợp vệ sinh.
Ngăn ngừa và giảm thiểu chất thải tại nguồn phát sinh còn được gọi là sản xuất sạch hơn là chiến lược được ưa chuộng nhất, vì không có chất thải nghĩa là không có ô nhiễm và không tốn chi phí xử lý và quản lý. Các giải pháp sản xuất sạch hơn không chỉ đơn thuần là thay đổi thiết bị, mà còn là các thay đổi trong cách vận hành và quản lý của mỗi một doanh nghiệp. Các giải pháp sản xuất sạch hơn được chia thành các nhóm như sau: giảm chất thải tại nguồn, tuần hoàn, cải tiến sản phẩm.
Sản xuất sạch hơn cần được đẩy mạnh tại địa phương như là một biện pháp bảo vệ môi trường. Một số doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc sản xuất sạch hơn và đã từng bước đầu tư đổi mới công nghệ, hệ thống xử lý nước thải, sử dụng năng lượng có hiệu quả, sử dụng nguyên liệu thay thế ít phát sinh chất thải…., góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn vẫn còn hạn chế, các giải pháp áp dụng còn ở mức độ đơn giản, kết quả chưa đạt theo yêu cầu; chất thải, nước thải, khí thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa tốt, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng. Để khắc phục những hạn chế nêu trên và thúc đẩy việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp, tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, đảm bảo sức khỏe con người và phát triển bền vững, các ngành chức năng cần tham mưu cho UBND tỉnh ra chỉ thị về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở sản xuất công nghiệp.
Cuối cùng là đẩy mạnh phong trào thanh niên bảo vệ môi trường trong các KCN. Lao động hiện tại đang làm việc trong các KCN hầu hết còn trẻ, khả năng nhận thức tốt. Tại mỗi doanh nghiệ nên có một bộ phận thanh niên kiêm về công tác bảo vệ môi trường. Bộ phận này được khuyến khích đưa ra những hoạt động phù hợp với tình hình của từng đơn vị (có thể là những hoạt động nhỏ nhưng có ý nghĩa như sử dụng tiết kiệm điện, nước, văn phòng phẩm, có sự phân loại rác ngay tại nguồn (nếu có)...) và tuyên truyền đến những công nhân khác nhằm nâng cao hơn nữa ý thức bảo vệ môi trường. Từ đó mọi người cùng chung tay giữ gìn vệ sinh trong khu vực sản xuất, tạo ra môi trường làm việc tốt hơn.
Thời gian vừa qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, các KCN hiện đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng của ngành công nghiệp. Phát triển KCN đã thu hút vốn đầu tư lớn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu của tỉnh Thừa Thiên Huế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên hoạt động của các KCN cũng gây ra những bức xúc về môi trường cần được quan tâm giải quyết. Cùng với sự phát triển của các KCN lượng thải và các chất gây ô nhiễm môi trường cũng gia tăng, gây tác hại đến sức khỏe người dân, ảnh hưởng xấu tới sự tăng trưởng bền vững của tình nhà. Trên đây là một số giải pháp nhằm tiến đến một nền sản xuất công nghiệp thân thiện với môi trường. Trong thực tế để các giải pháp đạt hiệu quả cao nhất cần phải có sự phối hợp thống nhất giữa các cấp, các ngành liên quan. Bản thân doanh nghiệp cũng phải chủ động trong hoạt động bảo vệ môi trường mới mong mang lại hiệu quả tối ưu nhất.








