Hướng đến nền "công nghiệp hóa sạch"
Triển khai mạnh…hiệu quả chưa cao
Theo kết qủa đánh giá của Viện năng lượng (Bộ Công Thương), bước đầu kết quả tiết kiệm năng lượng trong các năm 2006-2008 như sau: Năm 2006, lượng năng lượng tiết kiệm được là 135 KTOE, tương đương với 1,6 tỷ kwh, hoặc năng luợng của 972.053 thùng dầu thô. Nếu tính theo tỉ lệ phần trăm thì năng lượng tiết kiệm năm 2006 so với tổng tiêu thụ năm 2006 là 1,56%. Năm 2007, lượng năng lượng tiết kiệm là 557 KTOE, tương đương với 6,55 tỷ kwh. Nếu tính theo tỉ lệ phần trăm thì năng lượng tiết kiệm năm 2007 so với tổng tiêu thụ năng lượng năm 2007 là 3,15%. Năm 2008, lượng năng lượng tiết kiệm được là 682 KTOE, tương đương với 8 tỷ kWh. Nếu tính theo tỉ lệ phần trăm thì lượng năng lượng tiết kiệm của năm 2008 so với tổng tiêu thụ năng lượng năm 2008 là 3,48%. Trong giai đoạn 2006-2010 ước tiết kiệm được 3,2% (con số chưa đầy đủ) tổng mức tiêu thụ năng lượng quốc gia.
Theo đánh giá của các chuyên gia Viện Năng lượng, những năm gần đây, mức tiêu hao năng lượng có xu hướng giảm nhưng vẫn còn cao so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Tổ chức Năng lượng Thế giới, năm 2008 mức tiêu hao năng lượng của Việt Nam là 0,82 kWh/USD-GDP, cao hơn các nước phát triển trong khu vực. Hiện tại, cường độ tiêu thụ năng lượng trong công nghiệp của Việt Namcao hơn Thái Lan và Malaysia khoảng 1,5-1,7 lần. Không những thế, hơn 80% nguồn năng lượng sử dụng của nước ta là nhiên liệu hóa thạch không tái tạo được, quá trình cháy nhiên liệu là nhân tố gây ô nhiễm môi trường. Trong tiêu dùng cá nhân, lối sống hưởng thụ, tiêu xài lãng phí vẫn còn phổ biến ở một bộ phận dân cư, nhất là ở đô thị. Trong tiêu dùng sản xuất, do chạy theo sản lượng, nên nhiều ngành và địa phương đã chấp nhận các công nghệ sản xuất cũ, có mức tiêu hao lớn về vật tư và năng lượng…nên đã làm giảm hiệu quả sản xuất, giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, tiêu hao nhiều tài nguyên, năng lượng và thải nhiều chất thải ra môi trường.
Cần hướng đến nền "công nghiệp hóa sạch"
Để sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các chuyên gia khuyến cáo, cần phải đẩy mạnh thực hiện quá trình "công nghiệp hóa sạch", nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lí ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền "công nghiệp xanh". Những điều này cũng đã được Chính phủ "đốc thúc" với việc ban hành nhiều chính sách lớn có liên quan nhằm thực hiện quá trình công nghiệp hóa sạch như: "Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020"; "Kế hoạch quốc gia kiểm soát ô nhiễm môi trường đến năm 2010"…
Chính sự quyết liệt này, các cơ sở sản xuất công nghiệp, các Tập đoàn, Tổng công ty, Công ty công nghiệp đã nhanh chóng triển khai áp dụng sản xuất sạch hơn. Tính đến hết năm 2009 đã có khoảng 300 doanh nghiệp thực hiện dự án áp dụng sản xuất sạch hơn, kiểm toán chất thải. Đặc biệt, với ngành khai thác khoáng sản, tình trạng khai thác bừa bãi và xuất khẩu tràn lan đã được khắc phục một phần do những cố gắng củng cố lại trật tự. Việc xuất khẩu khoáng sản phải do doanh nghiệp làm và có một tiêu chuẩn nhất định. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tình thế. Cần phải có một chiến lược quốc gia về khai thác, sử dụng, mua bán và giữ gìn tài nguyên khoáng sản theo quan điểm phát triển bền vững.
Mặc dù đã đạt một số thành tựu trong quá trình thực hiện "công nghiệp hóa sạch", nhưng nhìn chung trong lĩnh vực này vẫn thiếu nhiều giải pháp cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, đi cùng với tư duy tăng trưởng bằng mọi giá, thiếu chú ý đến chất lượng nên thành quả đạt được còn rất khiêm tốn. Các nguyên lí, giải pháp về sản xuất sạch hơn chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm áp dụng. Và số lượng ít ỏi (vài trăm) doanh nghiệp Việt Nam áp dụng sản xuất sạch hơn trong quản lý sản xuất của mình, cho đến thời điểm này, là một minh chứng đáng suy ngẫm.








