Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 25/02/2008 23:26 (GMT+7)

Hơn nửa thế kỷ “Dân cày có ruộng”

Đầu thế kỷ XX, đã có một trào lưu Duy Tân từ thế giới thổi dọc đất nước nhen lên khát vọng dân chủ cho một dân tộc có đa số là nông dân đang chịu ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến. Trong khi số đông các nhà yêu nước chỉ quan tâm đến vấn đề làm sao giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân thì chỉ có những người cộng sản là chú trọng đến một vấn đề rất quan trọng là làm sao huy động được hơn 90% dân chúng là nông dân vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Đương nhiên, mục tiêu trực tiếp của một cuộc cách mạng dân chủ là thủ tiêu chế độ quân chủ. Chính vì thế, nếu khẩu hiệu đánh đổ vua quan chuyên chế của nhà ái quốc Phan Châu Trinh đã từng mang lại cho cụ lòng ngưỡng mộ của nhân dân đối với một chiến sỹ tiên phong trong phong trào dân chủ, nhưng không tổ chức được lực lượng cách mạng, thì khẩu hiệu “ ruộng đất cho dân cày” duy nhất do những người cộng sản đưa ra đã trở thành sức hấp dẫn thu hút đông đảo tầng lớp đông đảo nhất của xã hội Việt Nam là nông dân đi theo cách mạng. Cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) là một bằng chứng. Nhưng phương thức mang lại ruộng đất cho dân cày thì có những cách khác nhau.

Nếu như Nguyễn Ái Quốc trong Hội nghị hợp nhất để thành lập ĐCSVN (3-2-1930) đã đưa ra “ Chánh cương sách lược vắn tắt”, khi đề cập tới “thổ địa cách mạng” chỉ đưa ra mục tiêu “thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân nghèo” và “bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo”; còn trong “ Sách lược vắn tắt” thì chỉ “đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến”… Thì tới Cương lĩnh của Tổng bí thư Trần Phú mang từ Quốc tế Cộng Sản đến Hội nghị trung ương lần thứ Nhất (10-1930) lại đề cao đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, đã “thủ tiêu” các văn kiện đã được Hội nghị hợp nhất thông qua. Luận cương này đặt rõ mục tiêu “tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và các giáo hội; giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất về chánh phủ công nông”(Luận cương chánh trị); coi quan điểm của Chánh cương, sách lược vắn tắt là “sai lầm chánh trị và nguy hiểm”.

Cũng chính vì luận cương 10-1930 “coi địa chủ là cừu địch của nông dân mà đã thế thì phải đánh đổ và thâu hết ruộng đất của chúng nó” nên đã nảy sinh quan điểm cực đoan “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” khiến cho cao trào nổi dậy của nông dân như ở Nghệ Tĩnh những năm 1930-1931 đã thể hiện chí khí cách mạng vũ bão của người nông dân nhưng chịu thất bại trước bạo lực của kẻ thù vì những quan điểm tả khuynh đã làm nhụt vũ khí đoàn kết toàn dân…

Lịch sử chứng minh rằng, không phải bằng sức mạnh đấu tranh giai cấp mà bằng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được tập hợp quanh Cương lĩnh Việt Minh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập và người nông dân có cơ hội thực hiện được ước mơ ngàn đời của mình. Điều đáng ghi nhớ là chính cuộc cách mạng tháng 8-1945 do những người cộng sản của Hồ Chí Minh cùng sự góp sức của toàn dân đã xác lập nền dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời là một đỉnh cao của dân chủ, là thành tựu sáng chói của tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều này hoàn toàn nhất quán với những gì Nguyễn Ái Quốc đã từng đưa ra trước đó gần hai thập kỷ (1924) khi nhấn mạnh đến những đặc trưng “đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ không giống với châu Âu” và “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn” để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của Việt Nam.

Hồ Chí Minh hiểu lòng dân muốn làm gì sau khi đất nước đã độc lập. “Có độc lập mà nhân dân không được hưởng hạnh phúc là vô nghĩa”, phát biểu đầu tiên của vị Chủ tịch nước Việt Nam độc lập trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ VNDCCH cho thấy việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân mới là mục tiêu tối cao và tối hậu của cách mạng.

Hiểu người dân quê và ý thức vai trò của người nông dân trong lịch sử, hơn ai hết là Hồ Chí Minh. Sinh ra từ một làng nghèo của cải nhưng giàu lòng yêu nước; chứng kiến và tham gia phong trào chống thuế của những người nông dân Trung kỳ (1908); tham gia ban chấp hành và sáng lập tổ chức Quốc tế Nông dân của Quốc tế Cộng sản; chọn luận án nghiên cứu “về vấn đề nông dân và ruộng đất ở Đông Dương”…

Do vậy, khi trở thành người đứng đầu nhà nước, Hồ Chí Mịnh đã nêu chương trình hành động đầu tiên của Chính phủ là cứu đói và tăng gia sản xuất để khắc phục hậu quả của nạn đói tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu đồng bào, chủ yếu là những người nông dân nghèo khổ.

Tấm bằng khen đầu tiên dành cho thành tích của người nông dân, đội quân hùng hậu tham gia đắp đê chống lụt. Những sắc lệnh đầu tiên được ký là bãi bỏ các thứ thuế đánh vào người nông dân; thuế thân, thuế chợ, thuế đò. Một trong những văn bản ngoại giao đầu tiên là “sẵn sàng gửi 50 thanh niên Việt Nam ưu tú sang học kỹ nghệ canh nông của Hoa Kỳ” (Thư gửi tổng thống Mỹ, 11-1945).

Người đứng đầu nhà nước Việt Namkhẳng định: “Việt Nam là một nước nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc, Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông cậy vào người nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn…Nông nghiệp thịnh thì nước ta thịnh” (11-1946).

Để phát triển nền nông nghiệp và cải thiện từng bước đời sống của người nông dân nhưng vẫn giữ vững được khối đại đoàn kết toàn dân, làm nền tảng cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc, công việc đầu tiên của Chính phủ Hồ Chí Minh là ra thông tư (13-11-1945) giảm 25% địa tô với tá điền và những người cấy rẽ, cấy thuê. Trước cách mạng, người nông dân chiếm hơn 90% dân số chỉ có 30% ruộng đất, do vậy thông tư trên đã bước đầu giảm bớt sự đói nghèo cho những người nông dân không có ruộng. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích rằng đó là cách mang lại sự công bình, lợi cho cả điền chủ và nông dân. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, thông tư giảm 25% địa tô được nâng lên thành sắc lệnh (14-7-1949), bổ sung thêm nội dung giảm tức (vay nặng lãi bằng tiền hay thóc rất phổ biến trong nông thôn lúc đó) và một sắc lệnh tiếp theo bắt đầu tạm cấp ruộng đất thu của Việt gian và các chủ đồn điền thực dân. Đầu năm 1950 số ruộng tạm cấp được bổ sung thêm bằng số đất vắng chủ trong vùng tự do; rồi qua năm 1952, chính phủ lại ban hành điều lệ tạm thời về việc chia công điền nhằm quan tâm đến những người nông dân nghèo thiếu ruộng. Cần lưu ý là trong thời kỳ chiến tranh, tất cả đều được coi là “tạm cấp” để khi có điều kiện nhà nước sẽ có một bộ luật hoàn chỉnh hơn. Nhờ vậy mà cho đến năm 1953 đã có hơn 300.000 ha được tạm cấp cho nông dân, tức là gấp rưỡi số ruộng được chia cho nông dân thời kỳ Cải cách ruộng đất. Ở Nam bộ là nơi không thực hiện CCRĐ còn được bổ sung vào số đất do các điền chủ được vận động hiến điền nên số ruộng đã tạm chia cho nông dân lên tới 560.000 ha cho ngót 520.000 nông dân trong độ tuổi lao động. Như vậy với phương thức tạm cấp như vậy, từng bước tư liệu sản xuất đã đến tay người nông dân mà không phương hại đến khối đoàn kết toàn dân đang hợp sức tiến hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong thực tế vấn đề “ Cải cách thổ địa” cũng đã có lần được đưa ra bàn trong chính phủ, cũng như trong Đại hội Đảng lần thứ II (3-1951), nhưng mới chỉ là thiểu số và không được thông qua…

Những người nông dân mặc áo lính trên chiến hào Điện Biên Phủ đang đọc thư gửi từ quê nhà

Những người nông dân mặc áo lính trên chiến hào Điện Biên Phủ đang đọc thư gửi từ quê nhà

Nhưng từ năm 1953, vào thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng: chuyển sang thời kỳ tổng phản công. Phải huy động cao nhất mọi nguồn lực khôngchỉ trong nước với “nông dân là quân chủ lực”, mà còn phải tranh thủ được tối đa sự viện trợ, đặc biệt là vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc, là hai quốc gia trụ cột của phe XHCN, cũng là hai nước đòihỏi chúng ta thực hiện CCRĐ như một biểu thị cho tính cách mạng và cũng là điều kiện cho những viện trợ…Tất cả đã tạo ra mọi áp lực cho việc Quốc hội thông qua một bộ luật CCRĐ (12-1953). Đây cũng làbộ luật đầu tiên được soạn thảo kể từ khi Quốc hội thông qua hiến pháp (1946 - nhưng chưa ra sắc lệnh ban hành).

Những gì đã diễn ra sau 5 chiến dịch phát động kéo dài cho đến 2 năm sau ngày kháng chiến toàn thắng (1956) đã trở thành một thời đoạn lịch sử được ghi nhận là một cuộc vận động nông dân “long trời lở đất” như cách ví của bộ máy tuyên truyền đương thời, với nhiều bài học lịch sử đa chiều. Những sai lầm trong tổ chức thực hiện kết hợp với chiều hướng khuynh tả trong chủ trương “chỉnh đốn tổ chức” đã mang lại một tổn thất to lớn và hằn sâu trong ký ức một thời: “Không thể kể hết những cảnh tượng bi thảm…”(Tố Hữu, “ Nhớ lại một thời” (hồi ký), NXB Hội Nhà văn, H.,2000, tr.278).

Nhưng, đừng bao giờ vì thế mà quên ý nghĩa cao cả của mục tiêu “ruộng đất cho dân cày”mà CCRĐ chỉ là một bước hoàn tất không trọn vẹn. Những gì diễn ra trước đó cho thấy đã có một lượng ruộng đất rất lớn (gấp rưỡi số đất được chia trong CCRĐ) đã được tạm cấp cho nông dân mà không cần phải “đấu tố”.Nhưng những người dân cày truyền kiếp nghèo khổ được nhận ruộng lại là một nguồn lực vô cùng to lớn đối với chiến trường đang cần đến sự hy sinh để giành thắng lợi quyết định. Hình ảnh những người nông dân mặc áo lính ngồi trong chiến hào ở Điện Biên Phủ trước giờ xuất trận đọc lá thư nhà báo tin gia đình được nhận ruộng để chỉ chốc lát nữa là họ xông lên trước mũi tên hòn đạn của quân thù, giúp ta hiểu được phần nào cái ý nghĩa lớn lao đó. Rồi sau chiến thắng Điện Biên, việc người nông dân Thanh Hoá đói to vì đã dốc cả thóc giống lên chiến trường cho thấy sự hy sinh vô bờ bến của người nông dân với nghĩa cả của cách mạng… Dẫu sao thì CCRĐ cũng là một cái mốc biểu thị cho việc thực hiện mục tiêu lịch sử “người cày có ruộng”.

Nửa thế kỷ sau, khi nhắc đến CCRĐ cũng đừng quên một bài học ngày càng sâu sắc về một tinh thần dám chịu trách nhiệm, dám nhận lỗi trước nhân dân, dựa vào dân để sửa sai của một tổ chức cách mạng. Bài học vô tiền khoáng hậu về một tổng bí thư từng có công đầu trong cuộc Cách mạng giành độc lập, nhận trách nhiệm sai lầm trong CCRĐ và từ chức để rồi lại phấn đấu, ngót ba thập kỷ sau lại trở về cương vị tổng bí thư góp phần quan trọng khởi động cuộc Đổi mới.

Sau chiến thắng Điện Biên trong đó có công tích rất lớn của lực lượng chủ lực là nông dân, lịch sử còn ghi nhận một thành tựu mà ít ai còn nhớ. Có ruộng đất trong tay, người nông dân đã đẩy năng suất lên những kỷ lục mới: nếu như trước cách mạng (1945) năng suất ở Bắc Bộ trung bình khoảng 13 - 15 tạ/ha, thì năm đầu sau sửa sai (1975) đã đạt 17 tạ/ha, rồi 20,5 tạ (1958) và gần 23 tạ/ha (1959) đứng đầu năng suất trong khu vực Đông Nam Á.

Cách mạng đã đem lại cho người nông dân cái điều mà họ đã mơ ước từ ngàn đời, nhưng cách mạng lại muốn đem lại cho họ cái điều tốt đẹp mà chưa bao giờ họ biết tới, viễn cảnh về một lý tưởng cao cả mà các nhà nho phương Đông xưa từng nghĩ tới một “thế giới đại đồng” mà các nhà lý luận phương Tây gọi đó là chủ nghĩa xã hội. Bước đi đầu tiên để hướng tới đó là tập thể hoá. 15 năm tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc (1960) rồi tiếp đó thêm 5 năm trên cả nước (1976 - 1980) đã để lại một dấu ấn không phai mờ của một chủ nghĩa anh hùng cách mạng về sức chịu đựng và sự hy sinh của người nông dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Những hình ảnh người nông dân đem tất cả những phương tiện sản xuất (tài sản truyền đời và thành quả cách mạng ) để đưa vào hợp tác xã trở thành sở hữu tập thể… Rồi hình ảnh thời chiến, trai làng lên đường ra mặt trận, gái làng “3 đảm đang” gánh vác hậu phương.v.v… Lịch sử đã chứng kiến một nông thôn gồng mình gánh vác việc nước bảo đảm cho chiến thắng, nhưng nảy sinh biết bao mâu thuẫn mà chủ yếu tập trung ở hai vấn đề cơ bản : quan hệ giữa con người (người sản xuất) với ruộng đất (tư liệu sản xuất); giữa con người (xã viên) với con người (bộ máy quản lý) khiến hệ quả của nó là năng suất thấp và quản lý thiếu dân chủ. Những mâu thuẫn ấy đã đẩy nông thôn, sản xuất nông nghiệp đến sự khủng hoảng nghiêm trọng ở thập kỷ 80 của thế kỷ trước: một quốc gia nông nghiệp triền miên thiếu ăn và nhập khẩu lúa gạo, trong khi các con số thống kê cho thấy, cuối thế kỷ XIX từ đây đã xuất hơn nửa triệu tấn, và trước chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã xuất hơn một triệu rưỡi tấn gạo, trong khi nhà nước cũng gồng mình gánh nông thôn bằng một sự bao cấp không nhỏ : từ hạt thóc giống, thuốc trừ sâu,… phát không đến hệ thống tưới tiêu, thư viện và một nền giáo dục không thu tiền…

Chỗ dựa cuối cùng đối với người nông dân, nông thôn và sản xuất nông nghiệp lại bắt đầu từ cái mảnh đất 5% nhỏ nhoi mà mỗi hộ nông dân được giao. Nếu trên 95% ruộng đất, người nông dân làm việc theo tiếng kẻng hờ hững bao nhiêu thì trên cái mảnh đất 5% tuy chưa phải là sở hữu của mình nhưng người nông dân đã tìm thấy lợi ích và dồn sức lực cũng như niềm hy vọng cho nó. Ở bất kỳ đâu năng suất ở 5% này cũng cao hơn hẳn, mang lại hơn một nửa số thu nhập cho người nông dân, hơn hẳn 95% tư liệu sản suất đã tập thể hoá … Khoán chui bắt đầu từ Hải Phòng (An Hải, Yên Lãng) từ năm 1962; năm 1966 Ban bí thư đã ra thông tư 176 đề cập tới “3 khoán” ; đầu năm 1967, Bác Hồ về thăm Thái Bình đã đề cập tới việc thực hành dân chủ và tài chính công khai ; năm 1967 bí thư Vĩnh Phúc Kim Ngọc phá rào bằng phương thức “khoán gọn”, “khoán hộ”, thực chất là giao lại quyền sử dụng ruộng đất cho dân cày…

Nhờ đó sản lượng tăng gấp 4 lần so với 2 năm trước đó (1965)… Lo lắng sợ làm ăn cá thể sẽ từng “ngày từng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”, “khoán Kim Ngọc” bị phê phán để rồi 10 năm sau, Chỉ thị 100 mới ban hành thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Nông thôn, nông nghiệp và người nông dân bắt đầu chuyển mình … cùng cả nước bước vào Đổi Mới (Đại hội VI, 1986) để “tự cởi trói”.

“Việc phân chia ruộng đất quá manh mún, tệ rong công phóng điểm, tình trạng phân phối lương thực qua thu nhập bình quân,… dành qúa nhiều khoản bao cấp cho xã hội, bao cấp qua giá và nạn chuyên quyền độc đoán, mất đoàn kết, mất dân chủ, tham ô, lợi dụng của cán bộ nhà nước đang làm cho xã viên thiếu phấn khởi gây trở ngại cho sản xuất phát triển”, đó là nhận định của Nghị quyết 10 (5-8-1988) khi nhìn nhận nguồn gốc sự suy thoái của phong trào hợp tác hoá thập kỷ 80. Với nghị quyết này, đất canh tác đã tập thể hoá được giao hẳn cho hộ xã viên trực tiếp sản xuất, kinh doanh, được làm chủ hoàn toàn, số nông sản được làm ra theo cơ chế kinh tế thị trường… công cuộc Đổi Mới thực sự mở ra cho người nông dân. Không còn 5% nữa mà cả 100% đất được giao vào tay người nông dân lại cho chúng ta thấy một “sự thần kỳ” mới.

Mới năm 1986, nước ta còn phải nhập 534.000 tấn gạo, 1988: 395.900 tấn gạo, thì ngay những vụ thu hoạch đầu tiên sau Nghị quyết 10, người nông dân Việt Nam đã đưa sản lượng lên ngót 20 triệu tấn và dành ra 1,4 triệu tấn gạo để xuất khẩu. Con số ấy cứ tăng dần cùng thời gian: 1,9 triệu tấn (1992), hơn 2 triệu tấn (1995)… Và cho đến nay luôn giữ vững trên 4 triệu tấn, trở thành quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.

Và sẽ không đầy đủ nếu không biết rằng, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, bên cạnh sản xuất lúa gạo, người nông dân cùng các thành phần doanh nghiệp khác còn làm ra biết bao điều thần kỳ trên các lĩnh vực sản xuất và chế biến khác như cà phê, hồ tiêu, nuôi hải sản v.v… Và tất cả những thành tựu đó đếu bắt nguồn từ đất đai và ứng xử của con người đối với đất đai.

Với Hiến pháp 1992 và tiếp đó là Luật Đất đai được ban hành năm 1993, lần đầu tiên trong lịch sử, “sở hữu tư nhân” về đất đai bị thủ tiêu đã tạo ra nhiều tác động trái chiều, mà qua 3 lần sửa đổi đang được điều chỉnh cho luật tác động tích cực vào quá trình Đổi Mới. Không được sở hữu nhưng được giao quyền sử dụng rộng rãi và lâu dài, người nông dân với quyền tự chủ đối với đất đai của mình lại tiếp tục chứng minh năng lực làm ra của cải nhưng cũng đẩy nhanh hơn quá trình phân hoá xã hội. Khái niệm “địa chủ” giờ đây đã lùi xa thành “thuật ngữ lịch sử”, còn những người chủ đất hôm nay sẽ tồn tại và phát triển nhờ năng lực thích ứng với kinh tế thị trường để làm ăn ngày một lớn, tích tụ ruộng đất ngày một cao…

Nhưng với một loại tài nguyên không sinh sôi được mãi là đất đai, phần còn lại của những người nông dân không còn đất lại không được thu hút vào sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế sẽ còn là một vấn đề nhức nhối. Đó là những mảng tối trong bức tranh sáng sủa mà chúng ta đang chứng kiến ở những năm đầu tiên của thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới đầy hứa hẹn và thách đố. Đó là bức tranh tổng quan của hơn nửa thế kỷ “dân cày có ruộng”.

Xem Thêm

Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

LHH Bình Định và Gia Lai trao đổi kinh nghiệm, hướng tới mô hình tổ chức phù hợp sau sáp nhập
Ngày 28/5, tại TP Pleiku đã diễn ra buổi làm việc và trao đổi kinh nghiệm giữa Liên hiệp các Hội KH&KT (LHH) tỉnh Bình Định và LHH tỉnh Gia Lai. Buổi làm việc do ông Lê Văn Tâm – Phó Chủ tịch Thường trực LHH Bình Định và ông Nguyễn Danh – Chủ tịch LHH Gia Lai đồng chủ trì.
Nâng cao nhận thức và năng lực ứng dụng AI trong truyền thông, báo chí
Ngày 29-5, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Chương trình tập huấn với chủ đề “Trí tuệ nhân tạo (AI) – Ứng dụng trong báo chí hiện đại”. Học viên tham dự tập huấn là các phóng viên, biên tập viên thuộc các cơ quan báo chí của các Tổ chức KH&CN, Hội ngành toàn quốc trong hệ thống.
Quảng Ngãi: Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Thực hiện Chương trình phối hợp công tác năm 2025, Liên hiệp hội tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Kỷ nguyên mới - Sứ mệnh và hành động”
Quảng Bình: Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính - công vụ - xã hội
Ngày 28/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Quảng Bình tổ chức Hội nghị tập huấn Trí tuệ nhân tạo (AI) trong hành chính- công vụ - xã hội cho 100 học viên là cán bộ, công chức, viên chức một số sở ngành, cơ quan Liên hiệp Hội và hội viên của các Hội thành viên.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng chúc mừng Liên hiệp hội Hà Tĩnh nhân Kỷ niệm 30 năm thành lập
Sáng 26/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Tĩnh (Liên hiệp hội) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập (27/5/1995-27/5/2025). Dự lễ kỷ niệm có Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Trần Nhật Tân, đại diện các tỉnh bạn, các sở ngành tại địa phương và lãnh đạo, cán bộ nhân viên của Liên hiệp hội qua các thời kỳ.
Phát động hưởng ứng Ngày phòng chống tác hại của thuốc lá tại Phú Yên
Sáng qua 28/5, tại Trường đại học Phú Yên, Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tỉnh phối hợp với Hội Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam tổ chức lễ phát động hưởng ứng các hoạt động phòng chống tác hại của thuốc lá vì sức khỏe người tiêu dùng với thông điệp: “Phòng chống tác hại của thuốc lá bảo vệ thế hệ tương lai”, “Vì sức khỏe người tiêu dùng hãy nói không với thuốc lá”.
Anh nông dân lớp 5 và hành trình tại Hội thi Sáng tạo kỹ thuật
Trong bối cảnh nông nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đổi mới, thích ứng và sáng tạo để nâng cao năng suất và giảm chi phí lao động, một người nông dân tại Châu Phú, An Giang - dù chỉ học hết lớp 5 - đã chứng minh rằng: Tri thức không chỉ đến từ sách vở mà còn từ thực tiễn cần mẫn và khối óc sáng tạo không ngừng.
Trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam năm 2024
Tối 28/5, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo Khoa học Công nghệ (KHCN) Việt Nam năm 2024.
Quảng Ngãi: Tổ chức Hội nghị tuyên truyền cho trí thức
Chiều 9/5, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Quảng Ngãi, Liên hiệp hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị thông tin, tuyên truyền cho đội ngũ trí thức và Hội viên của Câu lạc bộ Lê Trung Đình tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề “Tình hình Biển Đông gần đây và chính sách của Việt Nam”.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Phát động Chiến dịch phục hồi rừng “Rừng xanh lên 2025” tại Sơn La
Hưởng ứng Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học 22/5 và Ngày Môi trường Thế giới 05/06, ngày 25/5, Liên Hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã phối hợp cùng Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature), Hạt Kiểm lâm Vân Hồ, Trung tâm Nghiên cứu Sáng kiến Phát triển cộng đồng (RIC) và chính quyền địa phương phát động trồng hơn 18.000 cây bản địa tại hai xã Song Khủa và Suối Bàng, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.
VinFuture 2025 nhận 1.705 đề cử toàn cầu – tăng 12 lần số đối tác đề cử sau 5 mùa giải
Giải thưởng Khoa học Công nghệ toàn cầu VinFuture đã chính thức khép lại vòng đề cử cho mùa giải thứ 5 với 1.705 hồ sơ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, số lượng đối tác đề cử chính thức của Giải thưởng đã tăng trưởng vượt bậc, đạt 14.772 đối tác.