Hội làm vườn Đắk Lắk: “Cán bộ đi trước, hội viên theo sau”
Cần phải kiên nhẫn
Cũng như nhiều địa phương khác, khi mới thành lập, HLV Đắk Lắk gặp nhiều khó khăn về tổ chức cũng như việc phát triển hội viên. Điều này xuất phát từ thực tế, tỉnh có tới 30% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, sản xuất còn mang nặng tính tự cung tự cấp. Vì vậy, từ khi thành lập, HLV luôn xác định, làm việc với đồng bào dân tộc cần có thời gian. “Cán bộ Hội phải thực hiện phương châm kiên nhẫn” - ông Nguyễn Công Bá, Chủ tịch HLV Đắk Lắk, nhấn mạnh.
Trước năm 1991, khi HLV chưa được thành lập, tập quán đốt nương làm rẫy của bà con đã khiến nhiều khu rừng bị tàn phá, trong khi đó, vườn tạp, đất bỏ hoang nhiều làm cho đời sống của dân gặp khó khăn. Năm 1991, HLV Đắk Lắk được thành lập với 3 chi hội cơ sở và 217 hội viên. “Số hội viên ấy thật nhỏ nhoi nhưng là cả một quá trình vận động, tuyên truyền của chúng tôi. Để đồng bào hiểu tác hại của việc đốt nương, sau đó cải tạo vườn tạp là điều không đơn giản. Với đồng bào dân tộc, cách thuyết phục hiệu quả nhất là việc làm cụ thể chứ không phải là lý thuyết suông” - ông Bá cho biết – “Được sự hỗ trợ của Trung ương Hội, HLV Đắk Lắk hướng dẫn bà con trồng cà phê. Nhiều người hào hứng xin cây giống về trồng. Sau một thời gian, chúng tôi phát hiện họ mang về gác lên bếp vì “không tin tưởng”. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi bắt đầu trồng thử nghiệm cà phê ngay tại nhà mình. Chỉ sau một năm, hiệu quả kinh tế của cây cà phê khiến bà con tin và làm theo".
Xây dựng kinh tế VAC hàng hoá
Từ khi thành lập, HLV Đắk Lắk trải qua 3 giai đoạn phát triển. Từ năm 1991 - 1995, được Trung ương Hội hỗ trợ, nhiều dự án triển khai sâu rộng đến từng chi hội cơ sở, chủ yếu là ở vùng sâu, vùng xa như dự án Eada tại xã Ea Yiêng (huyện Krông Pắc), với mục tiêu xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực, chống ô nhiễm môi trường. Cuộc sống của đồng bào đã dần ổn định, tình trạng đói nghèo giảm nhiều.
Từ năm 1996 - 2000 là thời kỳ quan trọng giúp hội viên chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ sản xuất thuần tuý sang sản xuất hàng hoá.
Giai đoạn 2000 - 2006 đánh dấu sự đi lên vượt bậc của kinh tế VAC ở Đắk Lắk bằng việc phát triển cà phê, cây ăn quả và chăn nuôi bò. Đây cũng là thời kỳ mà thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột bắt đầu được thị trường trong nước và quốc tế đón nhận. Người làm vườn coi cà phê là cây mũi nhọn trong phát triển kinh tế VAC. Do đó, diện tích cà phê tăng nhanh. Nhiều vườn cà phê thâm canh đạt sản lượng 7-8 tấn nhân /ha. Ngoài ra, Hội còn giúp hội viên trồng cây ăn quả, nuôi bò sinh sản. Nhiều vườn cây đạt giá trị 70 - 80 triệu đồng /ha/năm. Hội cũng thực hiện thành công dự án trồng đu đủ lấy mủ xuất khẩu (vốn đầu tư trên 400 triệu đồng). Đến nay, tại buôn Krông B, xã Ea Tu (Buôn Ma Thuột), đồng bào ê Đê trồng được 40ha đu đủ (1ha cho thu nhập 20 triệu đồng /năm). HLV tỉnh đang hướng dẫn hội viên mở rộng lên 200ha. Nhờ vậy, hội viên có thu nhập thấp nhất 5 triệu đồng /năm và cao nhất hơn 100 triệu đồng /năm. Anh Y Đê Ksor ở buôn Đnăng Ja A, xã Đnăng Ja A (Krông Năng) cho biết: “Từ thanh niên quanh năm chỉ đi làm thuê, nhờ Hội giúp đỡ, đến nay cuộc sống của tôi đã khác. Hiện tôi có đàn bò trị giá 15 triệu đồng. Tôi mong sao ở tất cả các buôn đều có HLV để hướng dẫn đồng bào thoát nghèo”.
Không chỉ chú trọng giúp đồng bào phát triển kinh tế VAC, nâng cao mức sống, HLV Đắk Lắk còn đề ra mục tiêu mỗi năm xây dựng một mô hình trình diễn kinh tế VAC ở một buôn, xã. Đến nay, vấn đề này được thực hiện ở 6 xã của 3 huyện và thành phố. Các lớp tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thu hút gần 5.000 lượt người tham gia…
Năm 2006, Hội còn thành lập Hợp tác xã VAC quy tụ 50 chủ trang trại. Các cơ sở Hội cũng đã nhận thức rõ phát triển kinh tế phải gắn với môi trường nên nhiều buôn làng sinh thái đã hình thành thông qua việc trồng rừng.
Thấy được vai trò của kinh tế VAC, nhiều người đã tự nguyện xin gia nhập Hội. Đến nay, HLV Đắk Lắk có 4.000 hội viên với 26 Hội Làm vườn xã, phường, 120 chi hội, 1 thành Hội và 5 huyện Hội.








