Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam : 40 năm hoạt động
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (KHLSVN) ra đời với Đại hội thành lập ngày 26/2/1966và Quyết định công nhận số 88-NV của Bộ Nội vụdo Bộ trưởng Ung Văn Khiêm ký ngày 31/3/1966. Đây là một trong những hội khoa học được thành lập vào loại sớm nhất ở nước ta. Người sáng lập và Chủ tịch đầu tiên của Hội là GS.VS Trần Huy Liệu, cố Viện trưởng Viện sử học Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IItổ chức tại Hà Nội vào tháng 9 năm 1988 là mốc mở đầu cho việc mở rộng tổ chức và hoạt động của Hội KHLSVN trên phạm vi cả nước. Từ đó đến nay, qua các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1994), lần thứ IV (2000) và lần thứ V (2005), Hội KHLSVN càng ngày càng phát triển theo hướng tập hợp rộng rãi những nhà khoa học công tác trên lĩnh vực của khoa học lịch sử và những ngành khoa học liên quan, nhằm đoàn kết giới sử học cả nước, thúc đẩy sự phát triển của khoa học lịch sử Việt Nam, phổ biến tri thức lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống dân tộc, bảo vệ di sản văn hóa, làm chức năng tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với những công trình và dự án liên quan đến sử học, thiết lập và mở rộng quan hệ giao lưu với giới sử học quốc tế. Từ năm 1988, các Đại hội đã nhất trí tôn vinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, GS.VS Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993), GS NGND Trần Văn Giàu làm Chủ tịch danh dự của Hội.
Cho đến nay, hệ thống tổ chức của Hội đã có mặt trong các cơ quan nghiên cứu, đào tạo về lịch sử và trên các địa bàn quan trọng của đất nước, Hội thực sự trở thành tổ chức xã hội nghề nghiệp đại diện cho giới sử học cả nước.
Chức năng, nhiệm vụ hàng đầu của Hội KHLSVN là góp phần thúc đẩy sự phát triển của khoa học lịch sử Việt Nam. Cùng với quá trình đổi mới và phát triển của đất nước, nền sử học Việt Nam đã trưởng thành và đạt nhiều thành tựu.Về cơ cấu chuyên môn, nền sử học đã phát triển bao gồm nhiều chuyên ngành liên quan mật thiết với nhau từ lịch sử Việt Nam cổ-trung đại, lịch sử Việt Nam cận-hiện đại, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng, lịch sử quân sự, lịch sử công an nhân dân, khảo cổ học, bảo tàng học... cho đến lịch sử thế giới từ cổ đại đến hiện đại và lịch sử địa phương, lịch sử các ngành nghề...Đội ngũ những người làm công tác sử học tăng trưởng tương đối nhanh và trong thế hệ trẻ đã xuất hiện một số cán bộ rất năng động, nhiều triển vọng.
Các chuyên ngành của khoa học lịch sử Việt Nam đều có kết quả nghiên cứu, phát hiện khoa học có giá trị và những đóng góp cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Khảo cổ học liên tục được mùa với nhiều phát hiện làm sáng rõ hơn bản đồ tiền sử, sơ sử và những nền văn hóa, văn minh trên cả nước. Các ngành lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng, lịch sử quân sự, lịch sử Công an nhân dân ngoài các công trình nghiên cứu chuyên đề hay tổng kết, còn coi trọng việc sưu tầm tư liệu và khai thác những nguồn tư liệu mới, làm phong phú hơn hiểu biết về lịch sử, văn hóa và đời sống của các cộng đồng cư dân và dân tộc. Công việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử địa phương cấp tỉnh, thành phố cho đến cấp huyện, xã phát triển khá mạnh dưới nhiều loại hình như lịch sử, địa chí, từ điển bách khoa, bách khoa thư...Nhiều công trình thuộc loài hình này đã được xuất bản, góp phần nâng cao dân trí và phát huy tác dụng giáo dục truyền thống dân tộc và cách mạng, trong đó có khá nhiều công trình do Hội KHLS địa phương đảm nhiệm hoặc phối hợp biên soạn. Ngoài các hội thảo và hoạt động do Hội tổ chức, giới sử học còn tham gia vào nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế, nhiều chương trình và đề tài khoa học công nghệ cấp Nhà nước. Trong thời gian qua, ba cơ quan nghiên cứu và đào tạo về lịch sử đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng thời kỳ Đổi mới: Viện sử học, Khoa lịch sử trường đại học KHXH&NV, Viện khảo cổ học.
Trong sự phát triển chung của nền sử học Việt Nam, vai trò của Hội KHLSVN là ngoài chức năng tập hợp và phối hợp hoạt động, còn qua các hội thảo khoa học, diễn đàn sử học, với cương vị đại diện cho giới sử học, đưa ra các nhận định, đánh giá và đề xuất các giải pháp, kiến nghị về định hướng phát triển nền sử học Việt Nam. Thành công lớn nhất của Hội về phương diện này là thúc đẩy sự đổi mới tư duy sử học mà thực chất là vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với những thành tựu của khoa học lịch sử hiện đại, nâng cao tính khoa học và khách quan trong nhận thức lịch sử. Qua nhiên cứu và thảo luận, một loạt các giai đoạn, sự kiện và nhân vật lịch sử đã được nhìn nhận và đánh giá lại một cách toàn diện và trung thực hơn. Lịch sử Việt Nam cũng không được nhận thức một cách phiến diện như là lịch sử đơn tuyến của dòng văn hóa Đông Sơn với nước Văn Lang-Âu Lạc rồi đến Đại Cồ Việt-Đại Việt hay chỉ tập trung vào lịch sử của dân tộc đa số, lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử chính trị... Xuất phát từ lãnh thổ Việt Nam hiện nay đi ngược về quá khứ, lịch sử Việt Nam bao quát tất cả những gì mà các công động cư dân, các tộc người, các quốc gia đã từng sinh sống và tồn tại trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam tạo lập nên. Từ quan niệm đó, lịch sử miền Trung và Nam Trung Bộ, Nam Bộ không chỉ bắt đầu từ khi người Việt di cư vào khai phá vùng đất này, mà phải bao gồm lịch sử dòng văn hóa Sa Huỳnh với nước Chămpa và dòng văn hóa Óc Eo với nước Phù Nam từ thời cổ đại. Nội dung lịch sử dân tộc cũng được nhận thức một cách toàn diện, cùng với những trang sử chống ngoại xâm oai hùng. Việt Nam từ khi lập quốc đến nay là một quốc gia đa tộc người (thường gọi chung là nhiều dân tộc), sinh ra và lớn lên một không gian địa-văn hóa mang tính giao lưu rộng rãi. Bên cạnh dân tộc đa số giữ vai trò trung tâm đoàn kết dân tộc, cần nêu cao cống hiến của các dân tộc ít người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất trong tính đa dạng của cấu trúc đa tộc người, của văn hóa đa tộc người. Do đó, cần nhận thức và xử lý khách quan mối quan hệ giữa tính bản địa với tính giao lưu và tiếp biến văn hóa, giữa tính thống nhất với tính đa dạng văn hóa. Trong Đại hội lần thứ IV, Hội KHLSVN đã đề xuất và kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm đến việc tổ chức biên soạn những bộ lịch sử Việt Nam xứng đáng với nội dung và bề dày của lịch sử dân tộc, đồng thời phản ánh những thành tựu mới nhất của nền sử học hiện đại nước nhà và những thành tựu chọn lọc của thế giới. Trong thời gian qua, bốn bộ lịch sử Việt Nam đã và đang đồng thời được biên soạn do Hội đồng KHXH TP Hồ Chí Minh, Viện sử học, Khoa Lịch sử trường Đại học sư phạm Hà Nội và Khoa Lịch sử trường Đại học KHXH&NV Hà Nội chủ trì. Bộ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam 4 tập cũng đã được hoàn thành và bộ Lịch sử quân sự Việt Nam 15 tập đang được biên soạn và xuất bản. Ngoài những công trình nghiên cứu mang tính chuyên đề thì trên đây là những công trình mang tính tổng hợp và tổng kết cao. Sau khi những bộ sử trên ra đời, Hội KHLSVN sẽ kiến nghị kế hoạch biên soạn một bộ Lịch sử Việt Nam đồ sộ khoảng 15-20 tập trên cơ sở tập hợp lực lượng và trí tuệ của giới sử học cả nước.
Về truyền bá kiến thức và giáo dục truyền thống, Hội đã tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan nhà nước tổ chức nhiều hội thảo kỷ niệm những sự kiện, nhân vật lịch sử. Các hội thành viên, nhất là các hội cấp tỉnh, thành phố đều có nhiều hoạt động truyền bá kiến thức lịch sử, giáo dục truyền thống và trở thành chỗ dựa có hiệu quả cho Đảng và chính quyền địa phương về các hoạt động sử học và truyền thống. Hội cũng đã tư vấn, hỗ trợ Đài truyền hình mở những chuơng trình phổ cập tri thức lịch sử trong nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, nhằm nâng cao hiểu biết về lịch sử dân tộc. Ý tưởng của Hội “mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân” năm 1997, nay đã thành một chương trình được xã hội đón nhận và hoan nghênh, góp phần xã hội hóa một phương thức tôn vinh các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, nhà cách mạng và khoa học hiện đại. Hội đã đúc được hơn một trăm pho tượng trao tặng cho các gia đình, dòng họ, cơ quan, bảo tàng, trường học. Đặc biệt Hội đã đúc tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm 1 pho toàn thân và 8 pho bán thân, đã trao tặng 2 pho đặt tại cơ quan ngoại giao Việt Nam ở Hoa Kỳ và 5 pho cho các sứ quán Việt Nam ở một số nước châu Âu...
|