Học nhiều để sống lâu
Ông Richard Hodes, Giám đốc National Institute of Aging nhận xét rằng, những khảo cứu gần đây cho thấy học tập là yếu tố quan trọng tác động tới tuổi thọ của con người. Những khảo cứu này cũng cho thấy, những yếu tố như tiền bạc và chế độ bảo hiểm xã hội – vốn dĩ trước đây được coi là các yếu tố chủ chốt tác động đến tuổi thọ - nay trở thành yếu tố ít quan trọng hơn. Ông Smith giải thích rằng: “Việc tăng hay giảm mức lương hưu trí tác động không lớn tới sức khoẻ con người. Mức lương hưu trí quan trọng thuộc góc độ khác, song không phải ở góc độ sức khoẻ”. Theo ông Smith và một số nhà nghiên cứu, quãng thời gian học tập tại trường học ngắn hay dài, khi còn trẻ có tác động tỷ lệ thuận với tuổi thọ. Ông cho biết rằng, những người “mài đũng quần” thêm vài năm trên trường đại học để có tấm bằng cao học, thì đấy cũng là những năm sống thêm và có sức khoẻ tốt hơn ở tuổi già. Các khảo cứu được tiến hành chỉ ra rằng, có mối liên hệ nhân quả giữa tuổi thọ và cuộc sống có nhiều bạn bè, gia đình hạnh phúc và những ngành nghề có uy tín, lối sống điều độ. Ông Michael Grossman, giáo sư kinh tế thuộc City University of New Jork phát biểu: “Nếu được bày tỏ yếu tố nào tác động tới sức khoẻ và tuổi thọ con người? Tôi sẽ không ngần ngại khẳng định rằng, học tập đứng ở vị trí đầu bảng”.
Khảo cứu đầu tiên về đề tài tác động của việc học tới tuổi thọ con người được cô Andriana Lleras – Muney, giảng viên Columbia University tiến hành vào năm 1999 và trở thành đề tài luận án tiến sĩ của cô, khi đó tình cờ cô đọc một bài báo của 3 nhà kinh tế đề cập tới mối liên quan giữa việc học và sức khoẻ con người và cho rằng, nếu muốn cải thiện sức khoẻ và sống thọ hơn thì nên đầu tư vào ciệc học hơn là đầu tư cho bảo hiểm y tế. Trong thực tế, có ít nhất hai khả năng: Một là - các cháu có sức khoẻ yếu thì không đi học hoặc bỏ học giữa chừng; hai là– có thể việc đi học là kết quả của gia đình giầu có, thì khi đó sự giầu có mang lại sức khoẻ. Những gia đình giầu có bảo đảm cho con cái đầy đủ các điều kiện về ăn, ở, học hành… thì con cái của họ sẽ khoẻ mạnh và sống lâu. Lleras – Muney cho rằng, đây là một khảo cứu khó, vì phải tách bạch yếu tố nào là nguyên nhân, yếu tố nào là kết quả, để tránh rơi vào vòng luẩn quẩn: Quả trứng có trước hay con gà có trước! Sự say mê nghiên cứu đã giúp Lleras – Muney tìm được những tài liệu lịch sử, tưởng chừng đã bị quên lãng – đó là các quy định của các bang tại nước Mỹ vào cuối thế kỷ XIX về việc kéo dài thời gian bắt buộc học. Các quy định này đã trở thành điểm mấu chốt để Lleras – Muney so sánh tuổi thọ của những người trước khi ban hành quy định và tuổi thọ của những người sau khi ban hành quy định. Kết quả khảo cứu của cô tại nhiều bang của nước Mỹ, dựa trên những số liệu thống kê về tuổi thọ của vài chục triệu người Mỹ tại nhiều bang, đã sống trong thế kỷ XX và những số liệu về tuổi thọ của người Mỹ gần đây cho một kết quả bất ngờ: Cứ mỗi năm kéo dài việc học tại các trường thì tuổi thọ tăng thêm 1,5 năm. Công trình khảo cứu của Lleras – Muney đã giành được phần thưởng của Hiệp hội Dân số học Mỹ và được công bố trong tạp chí kinh tế có uy tín “ Review of Economic Studies”, còn cô nghiên cứu sinh trẻ tuổi có trái tim say mê nghiên cứu khoa học Lleras – Muney được đề bạt lên vị trí trợ giảng tại một trong những trường đại học Princeton danh tiếng của nước Mỹ. Mấy năm gần đây, trên các tạp chí y học và kinh tế cũng đã công bố nhiều khảo cứu về việc tuổi thọ của con người được kéo dài do việc học tại Anh, Thụy Điển, Đan Mạch và Xcôtlen, đều cho thấy việc học có tác động tích cực tới sức khoẻ và giúp con người kéo dài tuổi thọ.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra được nhiều bằng chứng thuyết phục về “hiệu ứng việc học”. Các số liệu khảo cứu cho thấy, những người ít học là những người có cuộc sống khó khăn về vật chất hơn so với những người có học. Các khảo cứu tại Mỹ cho thấy, tỷ lệ gia đình có học chiếm tới 76,4% số gia đình giầu có. Tại Anh - tỷ lệ này còn cao hơn – 83,7%, tại Thuỵ Điển – 81,2%. Tỷ lệ những người ít học thành đạt chỉ chiếm 18,6% số dân tại Mỹ, tại Anh là 15,1%, tại Thuỵ Điển – 11%. Các nghiên cứu do ông Samuel Preston – giáo sư dân số học cùng các cộng sự thuộc University of Pensylvania cho thấy, tại Mỹ tỷ lệ những người ít học hút thuốc lá chiếm tới 82,5% số dân hút thuốc lá; số người có học hút thuốc lá chỉ chiếm 15,2%. Tại Anh - tỷ lệ này là 85,2% và 11,4%. Theo số liệu của Viện Y tế Dự phòng Ba Lan, tỷ lệ những người ít học hút thuốc lá là 89,2%. “Ai cũng rõ rằng, việc hút thuốc lá là một trong những nguy cơ hàng đầu gây đoản thọ!” – giáo sư Smauel Preston cho biết. Theo ông Smith, việc học giúp con người có tư duy khoáng đạt, lạc quan trong những lúc khó khăn, tự tin trong công việc tìm kiếm những giải pháp giải quyết các bài toán cho cuộc đời, biết nhìn và tin vào tương lai. Những người có học là những người không ngại khó, ngại khổ, biết vượt qua thách thức để đạt được mục đích – “đấy là những liều thuốc bổ cho sức khoẻ!” – ông Smith khẳng định. Ông cho biết thêm, các khảo cứu của ông tại Anh cho thấy, những người ít học là những người ít có tham vọng, tự cho mình là yếu kém, chỉ biết quanh quẩn với cuộc sống hiện tại, hay sa đà vào những tệ nạn xã hội như uống rượu, hút thuốc lá, đánh lộn…. Họ là những người kém cỏi trong việc sắp cuộc sống; sống hôm nay, không cần biết đến ngày mai – ông Smith khẳng định rằng đó là những liều thuốc độc dược cho sức khoẻ và tuổi thọ.
Mặc dù vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về ảnh hưởng tích cực của việc học tới sức khoẻ và tuổi thọ - song ông Richard Hodes, Giám đốc National Institute of Aging - vẫn khẳng định rằng, những khảo cứu gần đây, được tiến hành tại nhiều quốc gia phát triển, kế tục kết quả khảo cứu đầu tiên của Lleras – Muney cho thấy, không còn nghi ngờ gì về việc học giúp con người kéo dài tuổi thọ. Ngày càng có nhiều bằng chứng khẳng định cho lập luận khoa học này. Do vậy, việc đầu tư cho con cái học hành là điều ưu tiên hàng đầu của các gia đình. Ông cho rằng, việc học không chỉ giúp kéo dài tuổi thọ cho một người, mà việc học còn giúp kéo dài sự trường thọ của một dòng họ và một quốc gia. Việc đầu tư cho con cái học hành là sự đầu tư khôn ngoan và đem lại nhiều lợi ích nhất.
Nguồn : Tri thức trẻ, 4/2007, tr35.








