Hoạt động nghiên cứu - ứng dụng đến với những xã vùng cao huyện Sơn Động
Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Sơn Động đã chỉ rõ mục tiêu: Xây dựng huyện Sơn Động trở thành huyện có nền kinh tế tăng trưởng cao, các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ được hình thành và thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư kinh doanh; tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế tăng lên, tạo thêm nhiều việc làm mới, giải quyết vấn đề đời sống cho người lao động. Nông nghiệp tuy có giảm cơ cấu nhưng vẫn tăng cao với các giá trị về hàng hóa nông phẩm và lâm nghiệp. Tiềm năng thế mạnh của huyện được đầu tư khai thác mang lại lợi ích kinh tế lớn cho huyện. Như vậy, trong thời kỳ quy hoạch, tốc độ phát triển ở Sơn Động sẽ diễn ra khá nhanh, trong đó áp dụng công nghệ thông tin, tiến bộ mới về khoa học công nghệ, sản xuất và dịch vụ sẽ là nhân tố chi phối mạnh mẽ, mang tính quyết định. Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp sẽ là một ngành mũi nhọn của huyện để phấn đấu trở thành huyện công nghiệp của vùng. Trong điều kiện đó, việc ứng dụng tiến bộ về khoa học và công nghệ có ý nghĩ đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Sơn Động. Với những tiềm năng hiện có cùng với tiến bộ khoa học công nghệ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Sơn Động tập trung nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp, nông - lâm nghiệp sinh thái đáp ứng yêu cầu của thị trường. Điều này đặt ra trong quy hoạch phát triển các ngành cụ thể phải tính đến tác động của khoa học công nghệ trong sản xuất và dịch vụ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Bên cạnh đó cũng cần tính đến việc đào tạo lực lượng lao động để có thể nắm bắt và chuyển giao được công nghệ mới vào quá trình sản xuất. Công tác xóa đói giảm nghèo là vấn đề đặt ra, rất cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành, bên cạnh việc thực hiện các chương trình của Chính phủ, còn không ít những vấn đề cần giải quyết như: Vốn cho sản xuất, tiến bộ khoa học và công nghệ…
Những năm qua, đã có nhiều cơ chế, chính sách, hỗ trợ nông dân áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng sản xuất hàng hóa. Nổi bật là chính sách trợ giá, trợ cước giống cây trồng, vật nuôi cho các hộ nông dân. Thực hiện đồng bộ các chính sách ưu đãi đối với hộ nghèo, lồng ghép các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo với các chương trình phát triển kinh tế xã hội của huyện, tạo việc làm mới cho lao động địa phương. Chú trọng công tác nghiên cứu, ứng dụng KH&CN tiên tiến vào sản xuất, trong đó coi trọng khâu giống, tuyển chọn nhiều giống cây con có giá trị kinh tế cao. Chú trọng sản xuất các sản phẩm "xanh", "sạch" đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Xác định các vùng sản xuất hàng hóa sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm, hàng hóa. Các chương trình KH&CN trong lĩnh vực này chủ yếu tập trung cho việc ứng dụng, chuyển giao KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn, hình thành một nền nông nghiệp sinh thái trên địa bàn huyện. Ưu tiên tập trung nghiên cứu - ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển nông - lâm - ngư - nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch và bảo vệ môi trường. Phát triển công nghệ sinh học nhằm tạo ra các giống tốt, chất lượng, năng suất cao và ổn định, phù hợp với vùng sinh thái…góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp của huyện theo hướng sản xuất hàng hóa.
Các đề tài, dự án triển khai đạt hiệu quả thiết thực và tiếp tục được triển khai trên diện rộng nhân ra nhiều địa bàn như: Xây dựng các mô hình canh tác bền vững, xác định cơ cấu cây trồng chịu hạn, tránh hạn thích hợp cho vùng đất canh tác một vụ, khó khăn về nước tưới tại huyện miền núi Sơn Động như: Mô hình trồng cà tím, ngô chịu hạn, lúa tránh hạn,… áp dụng các tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình về trồng trọt, chăn nuôi tại những xã vùng cao huyện Sơn Động; các nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước mặt, nước dưới đất nhằm khai thác, sử dụng hợp lý phục vụ sản xuất và đời sống huyện miền núi Sơn Động.
Bên cạnh việc thực hiện các đề tài, dự án, những mô hình đã được đưa vào ứng dụng và chuyển giao trên địa bàn. Các tiến bộ kỹ thuật phát huy hiệu quả, nhiều giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng tốt đã được gieo trồng (chiếm trên 80% diện tích), thay thế các giống cũ ở địa phương: Kỹ thuật chống rét cho mạ bằng che phủ nilon, kỹ thuật gieo xạ. Chuyển giao một số giống lúa mới TH3-3, XT27, giống lúa chịu hạn CH5… nhằm từng bước thay thế các giống cũ của địa phương. Áp dụng kỹ thuật che phủ nilon, che phủ xác hữu cơ thực vật bằng các giống lạc L14, L15, L18, năng suất tăng và ổn định. Xây dựng mô hình sản xuất và nhân giống chè chất lượng cao như: Chè Ngọc Thúy, Bát Tiên,… Các chương trình, đề tài khoa học đã từng bước góp phần xóa đói, giảm nghèo cho bà con các dân tộc trong huyện. Bên cạnh các mô hình về trồng trọt, việc xây dựng và nhân rộng mô hình ứng dụng KH&CN nhằm phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, đưa vào ứng dụng một số giống gia cầm như nuôi gà theo phương thức chăn thả vườn, đồi với quy mô đàn từ 1.000 đến 3.000 con/hộ; xây dựng mô hình chăn nuôi lợn hướng nạc; mô hình nuôi dê bách thảo; xây dựng mô hình bếp tiết kiệm nhiên liệu giải quyết vấn đề chất đốt trong sinh hoạt… được triển khai tại các xã vùng cao của huyện trong những năm qua.
Các hoạt động nghiên cứu, triển khai KH&CN đã từng bước làm thay đổi dần tập quán canh tác truyền thống của người dân, giúp người dân dần ý thức được vấn đề an toàn sản phẩm, quản lý tiêu chuẩn của sản phẩm phục vụ chế biến, quản lý cộng đồng trong sản xuất hàng hóa. Các tiến bộ KH&CN không chỉ có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế cho một số hộ tham gia mô hình mà còn có tác dụng hình thành và mở ra một hướng làm ăn mới cho người dân trong vùng, góp phần giải quyết công ăn việc làm lúc nông nhàn.
Ngoài ra, sự kết hợp hài hòa giữa nông dân - nhà khoa học - doanh nghiệp dưới sự chỉ đạo của chính quyền các cấp đã góp phần quan trọng cho thành công của chương trình KH&CN cũng như hướng phát triển mở rộng kết quả ứng dụng trong những năm tiếp theo.
Trong những năm qua, việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với bà con nông dân để áp dụng trong trồng trọt và chăn nuôi được chú trọng. Nhờ đó, hiệu quả kinh tế hộ gia đình từng bước được chú trọng. Nhờ đó, hiệu quả kinh tế hộ gia đình từng bước được nâng cao, tỷ lệ hộ đói nghèo được hạ thấp. Đây là một tín hiệu vui đối với bà con nông dân ở huyện miền núi này. Từ thực tế sản xuất còn nhiều lạc hậu, người dân ở các xã vùng cao, vùng sâu chưa quen với các mô hình KH&CN nên đã chú trọng chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với bà con nông dân. Nhờ đó, người dân đã từng bước thay đổi thói quen của cách làm xưa cũ.
Để từng bước xóa đói giảm nghèo bền vững, ngành KH&CN đã triển khai các chương trình tập huấn trồng trọt, chăn nuôi, nhằm nâng cao kiến thức cho người nông dân trong phát triển kinh tế. Từ năm 2006 đến nay, đã chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho hàng trăm lượt hộ gia đình. Sau khi được tập huấn, bà con nông dân đã thay đổi được cách nghĩ, cách làm, mạnh dạn đầu tư sản xuất, chăn nuôi theo hướng hàng hóa. Các mô hình như trồng cỏ, chất cây rơm, ủ chua bã sắn tạo nguồn thức ăn cho trâu, bò đã được người dân đồng thuận và làm theo. Công tác đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho người dân được chú trọng, nâng cao hiểu biết về trình độ, làm chủ các quy trình công nghệ và kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản, chế biến… Tăng cường trình độ chuyên môn và năng lực chỉ đạo sản xuất cho đội ngũ khuyến nông viên cơ sở là người địa phương và người dân tộc.
Đối với tỉnh ta, thời gian qua việc cung cấp thông tin cho người dân bằng nhiều kênh khác nhau góp phần xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, trong đó kênh thông tin từ các cơ quan báo chí có vị trí hết sức quan trọng giúp người dân có thêm kiến thức, kinh nghiệm, nâng cao năng xuất lao động, cải thiện đời sống.
Bên cạnh những nỗ lực ứng dụng KH&CN, chính sách hỗ trợ KH&CN vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo huyện Sơn Động còn gặp nhiều khó khăn cần phải tháo gỡ, đó là: Trình độ dân trí của nông dân còn thấp, cho nên việc tiếp thu, ứng dụng KH&CN tiên tiến gặp khó khăn. Người dân chưa đủ sức đầu tư mua giống, phân bón chăm sóc theo đúng quy trình cho nên khi ứng dụng vào sản xuất gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, cần có cơ chế hỗ trợ và có giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ nông dân ứng dụng KH&CN vào sản xuất. Ngoài ra, vấn đề chế biến, bao tiêu sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn, do thị trường đầu ra không ổn định, nên nhiều sản phẩm luôn gặp tình trạng được mùa thì mất giá… Các ngành chức năng cũng cần hoạch định, khuyến khích người sản xuất, quy hoạch thành vùng và có cơ chế hỗ trợ hợp lý để người nông dân yên tâm phát triển sản xuất.
Thành công lớn nhất của các chương trình trợ giúp là đã giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, được hỗ trợ sản xuất để vươn lên thoát nghèo, qua đó nâng cao nhận thức cũng như trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và người nghèo về việc xóa đói giảm nghèo, đưa công tác này trở thành một phong trào, động lực to lớn cải thiện đời sống người dân.








