Hoàn thiện khung chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
Khung chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản
Từ thực tiễn triển khai hoạt động khoáng sản, từ năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Năm 2004, Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam( Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam ). Trong đó nêu lên 9 lĩnh vực ưu tiên cho môi trường như: Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản; quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; thực hiện các biện pháp làm giảm nhẹ BĐKH và hạn chế những ảnh hưởng có hại của BĐKH, phòng và chống thiên tai. Đặc biệt hai văn bản luật quan trọng điều chỉnh hầu hết các hoạt động BVMT trong hoạt động khoáng sản là Luật BVMT năm 2005 và Luật Khoáng sản (được sửa đổi, bổ sung, thay thế các năm 1996, 2005, 2010 cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước). Các quy định cơ bản của luật tập trung điều chỉnh các hành vi cụ thể trong hoạt động khoáng sản để đưa chúng vào trật tự quản lý, đồng thời bảo vệ được môi trường, cụ thể là:
Việc khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải tuân theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải quy định đầy đủ các điều kiện về BVMT.
Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu về BVMT trong quá trình thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; khi kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác phải phục hồi môi trường; phải chịu mọi chi phí bảo vệ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đại. Chí phí bảo vệ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai phải được nêu trong báo cáo ĐTM, báo cáo nghiên cứu khả thi về khai thác, chế biến khoáng sản hoặc đề án thăm dò khoáng sản. Tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản phải ký quỹ để phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai.
Tổ chức, cá nhân khi tiến hành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phải có biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và thực hiện các yêu cầu về bảo vệ và phục hồi môi trường sau đây: Thu gom, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường; thu gom, xử lý chất thải rắn theo quy định về quản lý chất thải rắn thông thường; trường hợp chất thải có yếu tố nguy hại thì thì quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại; có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế việc phát tán bụi, khí độc hại ra môi trường xung quanh; phục hồi môi trường sau khi kết thúc hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản.
Khoáng sản phải được lưu giữ, vận chuyển bằng các thiết bị chuyên dụng, được che chắn chống phát tán ra môi trường. Việc sử dụng máy móc, thiết bị, hóa chất độc hại trong thăm dò, khảo sát, khai thác, chế biến khoáng sản phải có chứng chỉ kỹ thuật và chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước về BVMT.
Việc khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản có chứa nguyên tố phóng xạ, chất độc hại phải tuân thủ các quy định về an toàn hóa chất, an toàn hạt nhân, bức xạ và các quy định khác về BVMT.
Cùng với các quy định về mặt chính sách, Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đầu tư đối với các dự án khai thác khoáng sản gắn liền với chế biến tại chỗ ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn; các dự án áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, bảo đảm môi trường, thu hồi tối đa tài nguyên… quy định rõ trách nhiệm bảo vệ tài nguyên khoáng sản đối với các cấp chính quyền, nhân dân địa phương nơi có khoáng sản cũng như đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản.
Bên cạnh các quy định về mặt chính sách, Nhà nước cũng điều tiết và kiểm soát hoạt động khai thác khoáng sản gắn với BVMT bằng nhiều công cụ như:
Các tiêu chuẩn, quy chuẩn môi trường trong khai thác khoáng sản
Các công cụ kinh tế như thuế, phí, ký quỹ môi trường, phí BVMT đối với các dự án khai thác khoáng sản được quy định tại Nghị định số 63/2008/NĐ-CP về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản; Nghị định số 82/2008/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/2008/NĐ-CP về phí BVMT đối với khai thác khoáng sản. Đối với nước thải, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải.
Phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trườnglà một trong những công cụ kinh tế quan trọng nhằm tăng cường chất lượng công tác đánh giá tác động môi trường và trách nhiệm của các nhà đầu tư đối với nhiệm vụ BVMT, đồng thời góp phần tiết kiệm chi phí từ ngân sách nhà nước đối với hoạt động thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường. Đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Tài chính đã có Thông tư số 218/2010/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định ĐTM phí thẩm định báo cáo ĐTM. Đối với báo cáo ĐTM thuộc thẩm quyền thẩm định của UBND cấp tỉnh, việc tổ chức thu phí được thực hiện trên cơ sở Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 29/12/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh. Với mức thu không vượt quá 5 triệu đồng đối với mỗi báo cáo ĐTM, các địa phương đang gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức thẩm định báo cáo ĐTM, Bộ Tài chính cần xem xét để sửa đổi Thông tư số 97/2006/TT-BTC theo hướng tăng mức thu phí nhằm đảm bảo chất lượng công tác thẩm định báo cáo ĐTM.
Ký quỹ phục hồi môi trường đối với các dự án khai thác khoáng sản, ngày 29 tháng 5 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 71/2008/QĐ-TTg về việc ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản và Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 34/2009/TT-BTNMT quy định về lập, phê duyệt, kiểm tra xác nhận dự án cải tạo, phục hồi môi trường và ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường đối với hoạt động khai thác khoáng sản. Theo quy định tại các văn bản này, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải lập Dự án cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản và trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt; thông báo nội dung Dự án cải tạo, phục hồi môi trường đã được phê duyệt cho UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi khai thác khoáng sản để kiểm tra, giám sát thực hiện cải tạo, phục hồi môi trường theo đúng Dự án đã được phê duyệt; số tiền ký quỹ tối thiểu phải bằng chi phí thực tế để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản. Việc nhận ký quỹ của các tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản sẽ do Quỹ BVMT chịu trách nhiệm. Khoản tiền ký quỹ được tính toán căn cứ vào quy mô khai thác, tác động xấu đến môi trường, đặc thù của vùng mỏ sau khai thác, chi phí cần thiết để cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản.
Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường; phục hồi và cải thiện một cách rõ rệt chất lượng môi trường sinh thái ở một số vùng. Bên cạnh đó, các tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản đã từng bước nâng cao ý thức tuân thủ quy định của pháp luật, gắn hoạt động khoáng sản với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế-xã hội của đất nước và địa phương. Tuy nhiên, công tác cải thiện chất lượng môi trường ở Việt Nam vẫn còn nhiều trở ngại và thách thức: Phát triển kinh tế tương đối nhanh tạo ra áp lực đối với môi trường; việc thực hiện các chính sách, chiến lược và pháp luật BVMT chậm so với thực tế; phối hợp giữa các ban, ngành trong lĩnh vực môi trường chưa chặt chẽ, đồng bộ; nhận thức và tham gia của cộng đồng trong công tác BVMT chưa cao.
Bên cạnh đó, hạn chế tối đa các tác động xấu của hoạt động khai thác mỏ tới môi trường, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên lòng đất, ngành mỏ cần thực hiện tốt hơn nữa nghĩa vụ và trách nhiệm BVMT theo đúng các quy định của pháp luật. Để Luật BVMT phát huy hơn nữa hiệu quả trong thực tiễn quản lý, khai thác, chế biến cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ sau:
Rà soát lại các văn bản pháp luật để khắc phục những tồn tại, chồng chéo, không đồng bộ và kẽ hở trong khung pháp lý môi trường.
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động BVMT, huy động các tổ chức quần chúng tham gia vào các hoạt động BVMT kể cả phổ biến và tham vấn cộng đồng, đặc biệt đối với các vùng mỏ.
Tăng cường nghiên cứu khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho BVMT cho ngành khai khoáng; Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ môi trường, công nghệ sạch, thân thiện môi trường trong lĩnh vực khai thác mỏ, phát triển các công nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng chất thải, đặc biệt là đất đá thải; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong BVMT mỏ; Tăng cường năng lực công tác ĐCM, ĐTM của Việt Nam; Nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động khai thác khoáng sản./.








