Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Khúc ca khải hoàn của dân tộc
Bài thơ gồm 10 tiểu đoạn, khoảng 100 câu, được cấu trúc tự do theo lối thơ hợp thể (câu ngắn nhất 3 tiếng; câu dài nhất 13 tiếng). Có lẽ chỉ với thể thơ này Tố Hữu mới diễn đạt hết các khía cạnh: từ bề dày đến bề rộng, bề xa của chiến thắng. Nói thơ hợp thể vì nếu xét theo từng tiểu đoạn một, ta sẽ thấy có những khổ, những câu thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ được dùng một cách tương đối ổn định, có cả những câu lục bát quen thuộc. Đó là những thể thơ Tố Hữu thường dùng, hay dùng, lặp đi lặp lại, trở thành một nét phong cách thơ Tố Hữu và ở mỗi thể thơ Tố Hữu từng có những bài hay. Từ đó có thể nói Hoan hô chiến sĩ Điện Biên là sự kết tinh về mặt nghệ thuật của Tố Hữu.
Đứng về phương diện nội dung: 4 tiểu đoạn đầu ghi lại niềm vui chung, cảm tưởng chung khi nhận được tin chiến thắng; 2 khổ sau cùng là ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ trên trường quốc tế, cụ thể là ảnh hưởng trực tiếp tới Hội nghị Giơ-ne-vơ “ Bọn địch gặp ta sẽ phải cúi mặt xuống” như dự đoán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Xin đi sâu phân tích 4 tiểu đoạn thơ miêu tả trực tiếp chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, từ tiểu đoạn 5 đến tiểu đoạn 8, trong đó tác giả dành hai tiểu đoạn (5, 6) chủ yếu nói về ta và hai tiểu đoạn (7, 8) chủ yếu nói về địch.
Về phía ta, tác giả đã dựng lại trận đánh hiệp đồng các binh chủng lớn nhất, hiện đại nhất trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Ca ngợi các chiến sĩ Điện Biên anh hùng thể hiện ở những hành động cực kỳ dũng cảm, nhà thơ lấy chất liệu từ những tấm gương tiêu biểu như: Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót nhưng không dừng lại ở một cái tên riêng nào:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Rõ ràng ở đây là “ Những đồng chí” chứ không phải “ Một đồng chí” – Tất cả các chiến sĩ Điện Biên, mỗi người đều rất xứng đáng nhận danh hiệu anh hùng ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/ Chiến sĩ anh hùng!).
Đó là những tấm gương tiêu biểu đại diện cho các binh chủng, trước hết là bộ binh (lực lượng quyết định chiến trường có quân số đông hơn tất cả) được miêu tả tới bốn câu thơ ( Những đồng chí thân chôn làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai/ Băng mình qua núi thép gai/ Ào ào vũ bão). Tiếp theo là binh chủng trẻ tuổi pháo binh ( Những đồng chí chèn lưng cứu pháo/ Nát thân nhắm mắt còn ôm) và binh chủng công binh ( Những bàn tay xẻ núi lăn bom/ Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện). Cả ba binh chủng đều thể hiện tuyệt vời ý chí quyết chiến quyết thắng của quân đội ta! Với cách diễn tả như vậy, nhà thơ đã giúp cho độc giả cảm nhận được trận đánh lớn lao này vừa ở mức độ toàn cục (các binh chủng), vừa ở từng chiến sĩ cụ thể. Mặt khác, nhịp thơ ở đây ngắn, mạnh, dứt khoát; các câu thơ biến hóa liên tục theo trường độ dài/ ngắn khác nhau như những mũi xung kích đang hình thành hướng vào mục tiêu là tập đoàn cứ điểm của quân giặc.
Các đoàn dân công ngày đêm ra tiền tuyến. Ảnh tư liệu.
Ở phía sau lưng các chiến sĩ là trùng điệp các đoàn dân công ngày đêm ra tiền tuyến – một lực lượng hậu cần khổng lồ, hùng hậu, chưa từng có trong lịch sử trước đó. Cùng với hình ảnh các chiến sĩ, đây là hình ảnh sinh động nhất của cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, ai cũng có dịp được đóng góp công sức vào chiến dịch mang tầm cỡ lịch sử quan trọng này!
Diễn tả chiến tranh, lại là “ trận chung kết” lịch sử, Tố Hữu không né tránh những mất mát, hy sinh. Đó là giá máu chúng ta đã phải trả. Bằng rất nhiều hình ảnh: “ Máu trộn bùn non; Nát thân nhắm mắt; Xương tan thịt nát…” – mọi lực lượng đều có tổn thất. Đúng là chúng ta đã phải dập tắt lửa chiến tranh xâm lược bằng máu cuộc đời mình chứ không còn cách nào khác. Tuy nhiên, đọc thơ Tố Hữu ta không hề thấy cảm giác bi lụy, rùng rợn. Tác giả miêu tả sự hy sinh nhằm nêu bật ý chí chiến đấu dũng cảm, kiên cường, tinh thần dám xả thân và những hy sinh to lớn để đem về chiến thắng. Đó cũng là cách ghi nhớ công ơn – Đời đời nhớ ơn những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống ở Điện Biên Phủ để:
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
Những khổ thơ tiếp theo, tác giả diễn tả một cách tổng hợp diễn biến tuyệt đẹp của trận đánh lịch sử và tình thế tuyệt vọng của kẻ thù, trước hết là quyết tâm của Trung ương Đảng và của toàn thể dân tộc đã trở thành hiện thực:
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Đồng thời đó cũng là lời khẳng định dứt khoát số phận tất yếu của kẻ xâm lược. Thế trận của ta nhiều tầng, nhiều lớp, trùng điệp cả trên trời lẫn dưới đất làm cho quân giặc lâm vào thế lúng túng, bị động, không có chỗ dung thân:
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Lần đầu tiên cao pháo của chúng ta đã vươn nòng làm chủ bầu trời vít cổ những máy bay giặc cướp xuống để tiêu diệt. Địa pháo của ta gầm lên nhả những viên đạn đồng theo nhau dội thác lửa hờn căm cấp tập xuống đầu thù, chi viện đắc lực cho bộ binh ta ào ào xốc tới tiêu diệt từng cứ điểm một, lần lượt đến cứ điểm cuối cùng là hầm chỉ huy của tên tướng thực dân. Đúng là một trận đánh hiệp đồng các binh chủng tuyệt đẹp, chưa từng có trong suốt cuộc kháng chiến: ta ở thế áp đảo, địch ở thế co lại phòng thủ, bị tấn công tứ phía, chỉ có một lối thoát duy nhất (hoặc là bị tiêu diệt hoàn toàn, hoặc là đầu hàng vô điều kiện):
Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh
Lá cờ "Quyết chiến, Quyết thắng" tung bay trên nóc hầm Tướng De Castries...Ảnh tư liệu.
Nếu ở phần trên tác giả dùng những câu thơ dài/ ngắn khác nhau để diễn tả thế trận của ta đang hình thành, thì ở đây tác giả lại dùng thể thơ 7 chữ cố định để diễn tả trận “ quyết chiến điểm” ở giờ phút quyết định, thế giặc thua là tất yếu không thể đảo ngược. Những câu thơ ở đây vừa kết hợp việc dùng những yếu tố biền ngẫu đối lập (đối lập giữa từ với từ, giữa ý với ý, giữa thế ta và thế địch…); cách dùng một số từ Hán – Việt; với việc ngắt nhịp câu thơ thành từng nhịp ngắn, mạnh, dứt khoát tạo ra một âm hưởng dồn dập, vừa trang trọng vừa hùng tráng. Cả 2 tiểu đoạn bao gồm những câu thơ đạt tới mức cổ điển hay nhất trong toàn bài. Chính vì vậy mà khi đọc hai đoạn thơ này lên ta như nghe âm vang những cung bậc của Bình Ngô đại cáo: “ Đánh một trận sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông/ Cơn gió to trút sạch lá khô/ Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ…”. Ta cũng như nghe những tiếng reo hò giết giặc vang dội của nghĩa quân Cần Giuộc năm xưa trong thơ Nguyễn Đình Chiểu: “ Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không/ Nào sợ thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chắng có/ Kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh/ Bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu thiếc tầu đồng súng nổ…”. Xin đọc lại cả hai đoạn thơ:
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết
Quyết trận này quét sạch Điện Biên
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này, của ta!
Chúng bay chỉ một đường ra
Một là tử địa, hai là tù binh
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm
Nghe trưa nay tháng 5 mùng 7
Trên đầu bay thác lửa hờn căm!
Trông: bốn mặt, lũy hầm sụp đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng
Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
Quả đúng là hào khí chiến thắng!
Cả bài thơ có tới ba câu thơ “ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” tạo thành một điệp khúc, nhưng chỉ có câu này là được đặt đúng vị trí của nó nhất, có giá trị biểu cảm cao nhất. Hoan hô các chiến sĩ, Tố Hữu cũng không quên hoan hô Tổng tư lệnh chiến dịch, người được Bác Hồ giao toàn quyền quyết định ngoài chiến trường đã có những quyết sách kịp thời và đúng đắn đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ:
Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp
Vinh quang Tổ quốc chúng ta!...