Hoa hòe vị thuốc nhiều triển vọng
Hòe (S. japonica) là đại mộc nhỏ, không lông, lá 1 lần kép với 13 - 17 lá phụ. Chùm hoa tụ tán ở ngọn cành. Hoa trắng, ngà, quả có eo chứa 4 - 5 hột. Bộ phận dùng là hoa (Hòe hoa).
Hòe trong Y dược học cổ truyền phương Đông: Hòe hoa hay Hoài hoa mễ (Flos Sophorae Japonica Immaturus) là nụ Hòe (Sophora japonica), thu hoạch vào mùa hè trước khi hoa nở hoàn toàn.
Hòe hoa được cho là có vị đắng, tính hàn và tác động vào kinh Can và Đại trường.
Hòe hoa có các tác dụng: lương huyết và cầm máu, dùng trị các chứng liên hệ đến “nhiệt - thấp” tại đại trường có xuất huyết, nhất là các chứng chảy máu do trĩ và tiêu ra máu; cũng dùng để trị chảy máu cam, thổ huyết (ói ra máu), khái huyết, huyết áp cao… Thường được phối hợp với Trắc bá diệp (Biot orientalis) sao cháy để trị tiêu, tiểu ra máu, xuất huyết tử cung, thổ huyết và chảy máu cam…
“Lương can”, dùng trị đau mắt sưng đỏ, chóng mặt xây xẩm do can nhiệt gây ra.
Y học cổ truyền còn sử dụng các dạng chế biên hoa Hòe vào các mục tiêu khác nhau: nụ Hòe tươi để giúp làm sáng mắt; Hòe sao, thiêu để cầm máu và tẩm mật sao để bổ phổi.
Quả Hòe hay Hoài giác (Fructus Sophorae Japonica), được cho là có hoạt tính cầm máu kém hơn nụ hoa, nhưng lại thanh nhiệt tốt hơn nên thường được dùng để trị các cục trĩ sưng. Quả có tính “giáng khí” nên tránh dùng khi có thai.
Sơn đậu căn là rễ cây Hòe Bắc bộ (Sophora tonkinensis = Sophora subprostrata), được chép trong Thái bảo bản thảotừ năm 973 cho là có vị đắng, tính hàn, tác động vào kinh phế, đại trường: thanh nhiệt, trừ độc do hỏa bốc lên và trị các chứng sưng và đau họng. Thường được phối hợp với quả Ngưu bàng (Ngưu bàng tử - Fructus Arctii Lappae) và rễ Cát cánh (Platycodon frandiflorum) để trị các bệnh về cổ họng sưng đau. Thanh phế: trị ho do phế - nhiệt. Trị các chứng hoàng đản do thấp nhiệt. Còn được dùng trị sưng cổ họng, sưng chân răng bằng cách sắc uống.
Khổ sâm cho rễ là rễ cây Sophora flavescens, được ghi trong Thần Nông Bản thảo, được xem là có vị đắng, tính hàn, tác động vào kinh tâm, can, bàng quang, đại và tiểu trường.
Tác dụng thanh nhiệt và khử thấp, thường dùng trị các chứng kiết lỵ, huyết trắng của phụ nữ, hoàng đản, sưng đau. Trừ phong, diệt trùng, trị ngứa: dùng trong các trường hợp lở ngứa ngoài da do nhiệt - thấp, trị ngứa ngáy nơi bộ phận sinh dục.
Thanh nhiệt và lợi tiểu, trị các chứng bất ổn do nhiệt thấp nơi tiểu trường, đi tiểu đau gắt.
Liều thường dùng 4 - 15g. Có thể đến 30g nếu chế biến thành dạng thuốc thoa ngoài da.
Khổ sâm cho rễ được dùng để trị kiết lỵ, chảy máu trong ruột, đi tiểu ra máu. Nước sắc rễ dùng rửa trị ngứa ngoài da. Bột rễ tán mịn dùng trộn với glucose và axit boric để trị sưng âm đạo do nhiễm Trichomonas.
Độc tính và độ an toàn: theo dược điển của Trung Quốc, liều tối đa khi dùng uống rễ Khổ sâm cho rễ (Sơn đậu căn), cho người lớn là 9g/ ngày. Liều gây độc là 30g. Liều cao Khổ sâm có thể gây hư hại thần kinh, co giật, nhất là ở trẻ em.
Liều LD 50 của oxymatrin được Zhu Youping xác định là 521 mg/kg.
Thành phần hóa học
Hột hòe (S. japonica) chứa:các alkaloid loại quinolizidin (0,04%) như cytisin, N-methyl cytisin, matrin, sophocarpin; các flavonoid (1,75%) như rutin (0,5%), sophorin; các polyscacharid như galactomannan; chất béo (6.9 - 12.1%); protein (17,2 - 23%); 265 mg% calcium; 272 mg% phosphor; 1,066 mg% potassium.
Hoa hòe chứa nhiều rutin, khoảng 34%, nhất là trong nụ hoa sắp nở, ngoài ra còn có các saponin khi thủy phân cho betulin, sophoradiol, sophorin A, B và C.
Vỏ quả có flavonoid (10%) như genistein, sphoricosid (genisterin - 4’ glucosid), sophorabiosid, keampferol rutin, ophorose.
Rễ cây có: (D, L) maackian, amhydropisatin, pterocarpan, sophoja ponicin, flavonoid…
Trong rễ Hòe Bắc bộ (Sophora tonkinense) còn có tên Sơn đậu căn, có các alkaloid (0,93%) loại quinolizidin như: cytisin, sophocarpin, matrin, lehmannin, sophoranol, oxymatrin và oxysophocarpin. Ngoài ra, còn có anagyrin, sophoranochromen, sophoradin, genistein maackian… Các saponin loại triterpenoid như sophor - neoanochromon…
Trong rễ của Khổ sâm cho rễ (Sophora flavescens) có: các flavonoid thuộc nhóm prenlflavonoi và lavandulyflavonoid như 9 -prenylkempferol, kushenol X, norkurarinon, leachianon A, kushenol C, maackiain… các alkaloid loại matrin như matrin, sophoridin, sophocarpin, lehmannin, sophoramin, oxymatrin, oxysophocarpin, cytosin và aloperin.
Các nghiên cứu về tác dụng dược học
Hoạt tính cầm máu: hòe hoa đã được sử dụng lâu đời trong y dược học cổ truyền Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam để làm thuốc cầm máu, làm bền mao mạch, ngừa giãn tĩnh mạch. Các nghiên cứu khoa học dưới các dạng chế bao gồm rutin, quercetin và tanin. Kết quả ghi nhận: khi cho thú vật thí nghiệm uống trong 5 ngày liên tục: thời gan chảy máu, thời gian đông máu, độ thẩm thấu vi mạch đều giảm hạ nơi chuột thử nghiệm. Thời gian prothrombin cũng giảm. Cả 3 dạng chế biến đều làm tăng lượng fibrinogen. Ngoài ra, các dạng chiết đều giúp tăng tiểu cầu. Dạng sao đến vàng được xem là có hoạt tính cầm máu mạnh nhất.
Hoạt tính chống ung thư của sophora tonkinensis (Hòe Bắc bộ): Liều 60 g/kg rễ có hoạt tính khá rõ trị ung thư cổ tử cung nơi chuột thử nghiệm, có tác dụng ức chế chống Sarcoma 180. Hoạt tính hóa trị liệu của oxymatrin mạnh gấp 7,8 lần so với mitomycin C. Khi thử dùng để trị các trường hợp ung thư máu ác tính hay granulocytic, dược liệu cho thấy có hoạt tính ức chế dehydrogenase và sự hô hấp của tế bào.
Tác dụng kháng sinh của S. Tonkinensis: có hoạt tính kháng sinh mạnh chống lại vi khuẩn lao, tụ cầu khuẩn (đặc biệt là Staphylococcus aureus đã kháng methicillin), kháng các nấm gây bệnh như Epidermophyton và candida albicans.
![]() |
Hoạt tính chống siêu vi của Sophoridin: Sophoridin, ly trích từ Giả hòe, còn gọi Khổ sâm cho rễ có hoạt tính chống siêu vi khuẩn Coxsackievirus B3, là tác nhân chính gây viêm cơ tim cấp tính và kinh niên, hoạt tính này do ở tác động trên tiến trình chuyển biến cytokin nơi tế bào cơ tim.
Tác dụng chống loạn nhịp tim của Khổ sâm cho rễ được dùng tại các bệnh viện Trung Hoa làm thuốc trị loạn nhịp tim. Thuốc có tác động làm chậm nhịp tim, gia thời gian chuyển dẫn nơi tim và gây giảm phản ứng kích ứng cơ tim. Các hoạt tính này không bị ảnh hưởng bởi các các nhân atropin nor-beta -adrenergic. Khi chích cho mèo, qua tĩnh mạch, dung dịch 100% S. flavescens liều 1 ml/mg cho thấy có sự giảm nhịp tim đồng thời có sự gia tăng lưu lượng máu qua động mạch vành. Các nghiên cứu ghi nhận d-matrin có tác dụng chống loạn nhịp tim nơi thú vật do hoạt động ức chế trực tiếp bắp thịt tim; hoạt tính chống loạn nhịp gây ra bởi aconitin, chlorur barium hay do cothắt động mạch vành.
Hoạt tính bảo vệ gan của oxymatrin, trích từ sophora flavescens có tác dụng bảo vệ tế bào gan chống lại những hư hại gây ra do các gốc tự do và các cytokin tạo phản ứng viêm… Các hư hại này do hiện tượng các tế bào tự hủy, có thể đưa đến viêm gan mãn tính. Khi chích cho chuột thử nghiệm (có đối chứng) oxymatrin 30 phút trước khi gây nghẽn gan chuột, kết quả ghi nhận số tế bào bị hư hại giảm thiểu, ALT và AST cũng giảm hạ đáng kể. Oxymatrin ngăn chặn tiến trình hư hủy tế bào gan bằng cách tác động vào Fas và các ligand Fas.
Tác dụng chống siêu vi viêm gan của oxymatrin đã được nghiên cứu về hoạt tính chống siêu vi viêm gan C tại các bệnh viện Trung Hoa từ 1999. Khi chích cho các bệnh nhân bị viêm gan siêu vi B, liều 600 mg/ngày: số lượng siêu vi khuẩn giảm hạ và tình trạng xơ gan cũng được cải thiện. Oxymatrin được ghi nhận là có tác dụng chống sao chép của siêu vi HCV khi thử trong phòng thí nghiệm trên môi trường cấy tế bào. Thử nghiệm tại Trung tâm Trị liệu bệnh Gan của BV Amoy (2002) trên 30 bệnh nhân viêm gan do siêu vi B, cho chích 40 mg/ngày trong 3 tháng, ghi nhận lượng siêu vi giảm rất rõ ràng và gan được tái tạo. Thử nghiệm, có đối chứng, mù đôi, năm 2004 trên 216 bệnh nhân viêm gan siêu vi B, dùng oxymatrin, chích hay uống, trong 24 tuần cho thấy kết quả rất tốt. Thử nghiệm kế tiếp rộng rãi hơn, trên 144 bệnh nhân viêm gan do siêu vi B hay C, chia thành 2 nhóm, đối chứng bằng placebo, cho uống 900 mg oxymatrin/ ngày trong 52 tuần đưa đến kết quả là lượng siêu vi khuẩn B hay C đều mất hẳn (negative) khi thử nghiệm và lượng ALT cũng trở về mức bình thường. Sinh thiết tế bào gan cũng cải thiện rõ rệt. Ngoài ra, trong một nghiên cứu khác, so sánh hoạt tính của oxymatrin (dùng chích) và interferon -A cho thấy oxymatrin có tác dụng tương đương với interfeon trong việc làm giảm lượng siêu vi mà không gây những phản ứng phụ độc hại. Mặt khác khi dùng oxymatrin chung với lamivudin để trị viêm gan siêu vi, kết quả trị liệu tương đương với việc dùng interferon chung với lamivudin.
Các hợp chất ức chế monamin oxidase trong dịch chiết từ rễ S. flavescens bằng methanol có hoạt tính ức chế MAO nơi não chuột thử nghiệm. Trong dịch chiết này có 2 flavonoid là formononetin, kushenol F và các hợp chất oxymatrin, trifolirhizin và beta -sitosterol. Hai chất có tác động IMAO là formononetin (ức chế MAO -B ở nồng độ IC50 = 21.2 micro M) Kushenol F cũng ức chế Mao -B ở IC50 - 63,1 và Mao -A ở IC50 =103,7 micro M.