Hoa hải đằng cây cảnh đẹp - vị thuốc quý
Cây có nguồn gốc ở Madagasca (châu Phi) được người Pháp đưa vào trồng làm cảnh ở nước ta. Sau đó, do tính phát tán mạnh, cây đã phân bố rải rác và đặc trưng ở những vùng bãi cát ven biển từ Hải Phòng đến Kiên Giang. Nơi tập trung nhiều nhất thuộc các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà. Còn có ở Côn Đảo và Phúc Quốc.
Nguồn dược liệu hoa hải đằng mọc tự nhiên ở nước ta kha phong phú. Trước năm 1975, miền Bắc đã xuất khẩu sang Đông Âu 1-3 tấn/năm. Những năm gần đây, lượng xuất khẩu sang Pháp (khoảng hơn 10 tấn/năm) thường xuyên hơn, chủ yếu từ cây trồng ở tỉnh Phú Yên.
Người ta nhân giống hoa hải đằng bằng hạt. Gieo hạt trong vườn ươm vào tháng 9-10 hoặc 1-2. Phủ rơm rạ, rồi tưới nước. Sau một tuần, hạt nảy mầm. Khi cây có 3-4 đôi lá, đánh đi trồng trên luống cao 20cm, rộng 50-60cm, với khoảng cánh 30x30cm. Tưới nước và bón phân. Sau khi trồng được 3-4 tháng, cây cho thu hoạch.
Trước đây, nhân dân ở vùng có hoa hải đằng, thường chỉ dùng cành lá của cây để làm phân xanh và lấy gốc thân làm củi đun. Một số người có kinh nghiệm đã lấy hoa hải đằng hấp với đường để chữa ho, tiêu chảy, kiết lỵ và nhai nhỏ lá tươi, ngậm 20-40 phút, rồi nhổ đi, sau đó ngậm nước muối chữa viêm lợi, đau răng. Có người còn dùng cả cây hoa hải đằng (20g, bỏ rễ) phối hợp với rễ cây đơn trắng (10g), thân cành cây trứng cá (10g), lá hoa mò mâm xôi (10g), rau má (10g), thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày chữa khí hư.
Từ năm 1955, hoa hải đằng được dùng làm thuốc chữa cao huyết áp vì cây này cùng họ thực vật với cây ba gạc (Rauxolfia) và cũng chứa những hoạt chất có tác dụng hạ huyết áp giống ba gạc như reserpin, ajmalicin, serpentin. Cành lá hoa hải đằng (dài 15-20cm) được thu hái mỗi năm 2 lần vào tháng 5 và tháng 10. Dược liệu hái về đem tải ra, phơi nắng nhẹ hoặc sấy khô ở 30-50°C. Tránh để tồn đọng, lá sẽ bị thâm đen, mất phẩm chất. Khi dùng, đem dược liệu tán nhỏ, rây bột mịn, lấy 100g nấu với 2-3 lần nước. Lọc rồi cô thành 100g cao lỏng. Liều dùng hằng ngày là 60 giọt cao chia làm 3 lần. Có thể dùng biệt dược Vinca, một loại viên bao chứa 3mg alcaloid toàn phần của hoa hải đằng. Người lớn uống 4-6 viên mỗi ngày, chia làm 2 lần.
Đến năm 1958, nhiều nhà nghiên cứu khoa học còn chiết được từ hoa hải đằng một số alcaloid khác mà khi áp dụng trên thực nghiệm và lâm sàng thấy có tác dụng làm giảm bạch cầu và chống ung thư. Thế là cây hoa hải đằng bỗng trở nên niềm hy vọng đối với một số người mắc bênh ung thư máu và nhu cầu về dược liệu này tăng lên một cách đột ngột. Các hãng dược phẩm đã tìm mua hoa hải đằng ở Việt Nam, Madagasca, Ấn Độ, Indonesia, Braxin và các nước nhiệt đới châu Phi khác để sản xuất vinblastin, vincristin và vindesin dưới dạng muối sulfat và bào chế thành các biệt dược như Velbe(Mỹ), Vinblastine-Richter (Hungary) dùng tiêm hoặc truyền.
Một số nước châu Âu và Châu Á, trong đó có nước ta đã nghiên cứu trồng hoa hải đằng trên quy mô lớn để chủ động trong việc cung cấp nguyên liệu. Mặc dầu đã có thành công bước đầu, nhưng cây hoa hải đằng vẫn còn được nghiên cứu để nâng cao hiệu quả điều trị.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số 258,259, ngày15/1/2005