Hiệu quả việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào mô hình chăn nuôi bò tại Đức Trọng, Lâm Đồng
Để phát huy tiềm năng lợi thế sẵn có, đồng thời khắc phục những hạn chế và tồn tại trong chăn nuôi bò thì việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật phát triển chăn nuôi bò theo hướng tăng năng suất, chất lượng và an toàn dịch bệnh là cần thiết. Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm Nghiệp Tây Nguyên đã thực hiện đề tài Xây dựng mô hình áp dụng tiến bộ KHCN vào chăn nuôi bò tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng,dưới đây là một số kết quả đạt được.
Các tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào mô hình chăn nuôi bò
Tiến hành xây dựng các mô hình chăn nuôi bò áp dụng các tiến bộ kỹ thuật (gồm 4 mô hình bò thịt và 2 mô hình bò sữa):
* Mô hình bò thịt:
- Lai tạo bò lai hướng thịt: Sử dụng tinh của các giống đực cao sản như: Brahman, Droughtmaster, Charolais để phối giống cho đàn bò nền lai Sind.
- Giải quyết thức ăn cho bò:
+ Trồng các giống cỏ cao sản Panicum maximum(cỏ Ghi-nê), Pennisetum purpureum(cỏ Voi) và VA06.
+ Chế biến cỏ và phụ phẩm nông nghiệp như ủ chua cỏ và cây ngô, ủ rơm urê,…
- Vỗ béo bò: Sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và các nguồn thức ăn sẵn có để vỗ béo bò thịt trong thời gian 60 ngày. Sử dụng cỏ tươi, thức ăn ủ và thức ăn tinh để vỗ béo. Thành phần thức ăn gồm: 40% thức ăn tinh; 60% thức ăn thô xanh.
* Mô hình bò sữa:
- Áp dụng một số kỹ thuật vệ sinh chuồng nuôi.
- Cải tiến phương thức vắt sữa và bảo quản sữa: sử dụng máy vắt sữa quy mô nhỏ và dụng cụ bảo quản sữa.
* Vệ sinh thú y:
Cả 2 loại mô hình đều áp dụng chung quy trình vệ sinh phòng bệnh: Tiêm phòng đầy đủ các loại vaccin Lở mồm long móng (FMD), Tụ huyết trùng (Pasteurellosis); phòng trị ve, các bệnh ký sinh trùng đường máu.
Các kết quả đạt được
- Lai tạo bò lai cao sản bằng gieo tinh nhân tạo: Tỉ lệ mang thai của bò cao: trên 90%, tỉ lệ đẻ đạt 100%. Tỉ lệ bê đẻ ra khỏe mạnh là 100%.
- Trọng lượng bò lai như sau: Sơ sinh đạt 20,2 kg/con; 3 tháng tuổi: 71,8 – 74,1 kg/con; 6 tháng tuổi: 109,2 – 113,7 kg/con; 12 tháng tuổi: 173,7 – 183,6 kg/con. Tăng trọng tuyệt đối tương ứng là 426 – 453 g/con/ngày.
- Năng suất cỏ Pennisetum purpureumđạt 169,8 tấn chất xanh/ha; Panicum maximum:124,4 tấn xanh/ha. Thành phần dinh dưỡng 2 giống cỏ trên đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng để làm thức ăn cho bò.
- Sản lượng và chất lượng sữa của đàn bò khi được nuôi đúng quy trình kỹ thuật tăng lên đáng kể. Hàm lượng mỡ sữa đạt 4,18%, cao hơn hẳn lô đối chứng (3,58%). Các chỉ tiêu vi sinh vật sữa đều đạt mức cho phép.
- Cỏ ủ chua có thể bảo quản được trên 90 ngày và có chất lượng tốt. Sử dụng cỏ ủ để nuôi bò, tăng trọng của bò đạt 594 g/con/ngày, cao hơn lô chăn thả tự do (464 g/con/ngày).
- Sử dụng rơm ủ 4% urê để nuôi bò với 50% trong khẩu phần, tăng trọng của bò cao hơn bò ăn rơm khô.
- Cây ngô sau thu hoạch đem ủ chua có thể bảo quản được trên 90 ngày và có chất lượng tốt. Sử dụng cây ngô ủ chua để nuôi bò, kết quả tăng trọng cao hơn lô đối chứng (540/504 g/con/ngày).
- Kết quả nuôi vỗ béo bò theo hai phương thức: nuôi nhốt hoàn toàn và bán chăn thả sau 60 ngày nuôi thí nghiệm, tăng trọng tuyệt đối lần lượt là 826 g/con/ngày và 805 g/con/ngày, cao hơn lô đối chứng (494 g/con/ngày). Các chỉ tiêu giết mổ như tỉ lệ thịt xẻ, tỉ lệ thịt tinh, thành phần hóa học thịt đều cao hơn bò không vỗ béo.
Hiệu quả về kinh tế - xã hội
- Nuôi bò sữa áp dụng các quy trình kỹ thuật, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, vắt sữa bằng máy, thực hiện vệ sinh vắt sữa chặt chẽ sẽ làm tăng sản lượng sữa (543,67 kg/con/chu kỳ) so với phương pháp nuôi thông thường (vắt sữa bằng tay) và lợi nhuận thu về cao hơn khoảng 2.990.185 đồng/con/chu kỳ.
- Các mô hình bò thịt áp dụng các tiến bộ kỹ thuật như: phối tinh nhân tạo, chế biến thức ăn cho bò như ủ chua cỏ, ủ rơm urê, ủ chua cây ngô và vỗ béo bò đều cho tăng trọng của bò cao hơn so với phương pháp nuôi truyền thống (chăn thả tự do). Thu nhập của người chăn nuôi tăng, hiệu quả kinh tế cao hơn so với phương pháp nuôi thông thường.
- Việc trồng một số giống cỏ chăn nuôi phù hợp tại địa phương sẽ mở ra hướng mới trong phát triển chăn nuôi đại gia súc bền vững, vừa tận dụng vùng đất hoang hóa, vườn tạp để trồng cỏ phát triển chăn nuôi; Việc tận dụng phụ phẩm nông nghiệp như rơm, cây ngô sau thu hoạch làm thức ăn cho bò, áp dụng các phương pháp vệ sinh vắt sữa và cải tiến phương thức vắt sữa vừa đảm bảo môi trường chăn nuôi sạch sẽ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Chăn nuôi có áp dụng phòng chống dịch bệnh sẽ kiểm soát được dịch bệnh, từ đó sẽ giảm sự ảnh hưởng xấu của các bệnh gia súc lây sang người, bảo vệ an toàn sức khỏe cho cộng đồng.








