Hiệu quả từ dự án Xây dựng mô hình sản xuất nấm bào ngư trên địa bàn thành phố Cần Thơ
Trước tình hình sản xuất nông nghiệp của thành phố đang dần phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ và triển khai các mô hình sản xuất có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao để góp phần chuyển dịch thành công cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, mô hình trồng nấm bào ngư khá thích hợp để triển khai trồng trong các hộ dân. Trồng nấm bào ngư có yêu cầu kỹ thuật chăm sóc khá đơn giản, không sử dụng hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật, năng suất khá cao. Đặc biệt, nấm bào ngư có thể sản xuất được quanh năm, thị trường tiêu thụ cũng đang mở rộng, được người tiêu dùng ưa chuộng và là mặt hàng có giá trị xuất khẩu.
Nhằm góp phần thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, giảm nghèo và phát triển nông thôn ở Tp.Cần Thơ, dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nấm bào ngư trên địa bàn thành phố Cần Thơ” đã được Trung tâm Kỹ thuật và Ứng dụng Công nghệ Cần Thơ thực hiện.
Mục tiêu của dự án nhằm ứng dụng công nghệ có hiệu quả kinh tế để sản xuất nấm bào ngư; khai thác những lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động nhàn rỗi tại địa phương, tận dụng phế thải nông nghiệp sản xuất các loại nấm có giá trị kinh tế nhằm đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, giải quyết việc làm ở nông thôn, tăng thu nhập cho người nông dân và đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, nông dân nắm vững các quy trình công nghệ nuôi trồng nấm bào ngư để nhân rộng mô hình qua đó thúc đẩy nghề trồng nấm của thành phố mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho địa phương.
Dự án được triển khai ở 4 quận/huyện Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng và Phong Điền, đây là những địa phương có những đặc thù và tập quán canh tác khác nhau.
Phương án đầu tư cho các hộ dân:
Đây là mô hình ứng dụng mới ở Cần Thơ, giúp người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đánh giá hiệu quả kinh tế một cách cụ thể làm cơ sở để nhân rộng mô hình đồng thời xây dựng phát triển nghề trồng nấm tại Cần Thơ. Dự án đầu tư theo phương thức “nhà nước và nhân dân cùng làm” để giúp mô hình triển khai có hiệu quả. Dự án hỗ trợ người dân kinh phí về phôi giống(97.500.000đ/10 hộ) phần còn lại là sự đóng góp của các hộ dân để xây dựng nhà trại, thiết bị, công lao động, chi phí nuôi trồng…(khoảng 168.568.000đ/10 hộ). Dự án không thu hồi kinh phí.
Hiệu quả kinh tế xã hội, thị trường tiêu thụ và khả năng mở rộng của dự án:
Trong một vụ trồng(6 tháng) của 10 hộ dân cho thấy đa số có 4 đợt thu hoạch, một vài hộ chỉ có 3 đợt thu hoạch, đợt thu hoạch đầu tiên cho năng suất cao nhất trung bình đạt 179 kg kéo dài khoảng 20 ngày, những đợt tiếp theo năng suất giảm dần và thời gian thu hoạch của các đợt cũng ngắn hơn. Trong khoảng thời gian giữa mỗi đợt thu hoạch các bịch phôi vẫn cho ra nấm nhưng số lượng không nhiều trung bình khoảng 3 kg/ngày.
![]() |
Kết quả có 9/10 hộ đạt lợi nhuận từ mô hình, một hộ lỗ do chất lượng phôi không đạt. Trong đó:
Tổng doanh thu của các hộ đạt cao nhất là 26.987.000đ và thấp nhất là 7.754.000đ, doanh thu trung bình của 10 hộ đạt 18.975.950đ. Doanh thu các hộ khác nhau khá nhiều là do năng suất khác nhau và giá bán nấm giữa các hộ cũng chênh lệch nhau. Giá nấm bán thông thường từ 20.000đ/kg đến 24.000đ/kg; giá bán lẻ từ 27.000đ/kg đến 35.000đ/kg vào thời điểm hút hàng lên đến 50.000đ/kg.
Vốn đầu tư của các hộ trung bình là 11.950.000đ(kể cả phôi giống), cả sự đầu tư của các hộ dân cũng khác nhau do một số hộ tận dụng nguồn vật liệu sẵn có để xây dựng trại nấm nên góp phần làm giảm chi phí đầu tư. Lợi nhuận trung bình các hộ dân đạt 7.025.950đ/vụ trồng; năng suất nấm trung bình đạt 266g/bịch. Ngoài ra tỷ suất lợi nhuận(= lợi nhuận/vốn đầu tư) của mô hình đạt gần 59%(=7.025.950/11.950.000) góp phần khẳng định thêm tính hiệu quả kinh tế từ mô hình.
Chất lượng nấm đạt yêu cầu thị hiếu của người tiêu dùng tai nấm đẹp, không bị côn trùng tấn công. Tỷ lệ nấm hao hụt sau thu hoạch không đáng kể, hầu hết các chỉ tiêu chất lượng nấm đem phân tích đều phù hợp với chất lượng do nhà sản xuất công bố.
Qua kết quả xây dựng mô hình cho thấy, để trồng nấm đạt hiệu quả cao cần chú ý một số yếu tố sau:
-Nhà trại trồng nấm cần được bố trí xây dựng ở nơi mát mẻ, có thể dùng các vật liệu như tre, tràm, lá làm nhà trại để tiết kiệm chi phí, nhà trại cần thông thoáng bằng cách che lưới xung quanh nhưng cần thiết kế những tấm bạt để tránh những đợt gió lạnh sẽ làm nụ nấm bị khô và chết.
-Có thể sắp xếp bịch phôi theo kiểu chất kệ hoặc dây treo, mỗi cách đều có ưu và khuyết điểm riêng, tùy vào điều kiện cụ thể mà sử dụng phương pháp sắp xếp bịch phôi cho phù hợp.
-Chất lượng giống là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của mô hình, vì vậy cần lựa chọn nhà cung cấp phôi giống có uy tín. Chỉ nên mua bịch phôi với quy cách tơ nấm lan khoảng 5-10% giá thể, vì lúc này có thể quan sát được tơ nấm phát triển mạnh hay yếu và loại bỏ được những bịch phôi bị nhiễm do thao tác cấy hoặc do khâu khử trùng chưa đạt.
-Ngoài yếu tố chất lượng phôi giống, kỹ thuật trồng nấm chủ yếu là quản lý vệ sinh trại và tưới nước để tạo độ ẩm cho nấm hình thành quả thể. Mặc dù theo kết quả ghi nhận của dự án cho thấy không có sự tương quan giữa nhiệt độ và độ ẩm liên quan đến năng suất nấm trong điều kiện của dự án. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy trong điều kiện nắng nóng rất khó khăn trong việc tạo độ ẩm cho trại nấm, vì vậy nếu trồng nấm với quy mô diện tích lớn hơn 50m 2, cần thiết kế hệ thống tưới phun sương tự động để giảm công tưới. Cần chú ý phương pháp tưới nấm với giọt nước càng mịn càng tốt, không tưới quá mạnh làm nước lọt vào bịch phôi làm bịch phôi mất năng suất.
-Do dự án chỉ tiến hành công khai trồng một vụ nên chưa có những so sánh và đánh giá mùa vụ cụ thể để trồng nấm. Tuy nhiên, hạn chế trồng nấm vào thời điểm giao mùa thường có sự thay đổi thất thường về thời tiết ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm.
Ưu điểm nổi bật của mô hình là không tốn nhiều công chăm sóc, thu nhập từ lợi nhuận trồng nấm được xem là thu nhập tăng thêm vì những người tham gia dự án chỉ chăm sóc nấm ngoài thời gian làm những công việc chính qua đó giúp người dân tận dụng được thời gian lao động nhàn rỗi. Ngoài ra người dân còn tận dụng nguồn cơ chất của phôi nấm sau vụ trồng để làm phân bón cho cây trồng, trồng rau mầm, nấm rơm giúp tăng thêm hiệu quả của mô hình. Qua đó cho thấy chỉ với diện tích 50 m 2có thể mang đến thu nhập trên một triệu đồng/tháng. Đây được coi là mô hình lý tưởng cho việc tăng thu nhập từ nghề phụ và thích hợp để chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng trong tình hình đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp như hiện nay.
Thị hiếu của người dân đối với nấm bào ngư rất tốt, đa số người dân đều thích sau khi dùng thử loại nấm này do nó có vị ngon, ngọt, giòn, dễ ăn và dễ chế biến. Trong 10 hộ dân tham gia dự án có 5 hộ dân đã tự tái đầu tư sản xuất, trong đó có 2 hộ mở rộng quy mô diện tích. Qua đó nhấn mạnh tiềm năng của mô hình. Tuy vậy, thị trường tiêu thụ nấm Bào Ngư hiện nay còn thấp do vẫn còn một số người dân ở Tp.Cần Thơ chưa biết nhiều về nấm Bào Ngư cũng như những lợi ích của nó với sức khỏe con người. Hiện nay, tại Cần Thơ chỉ mới tiêu thụ nấm tại địa phương, các nhà thu mua chủ yếu cung cấp cho các chợ, siêu thị trung bình từ 300 – 500kg/ngày với giá trung bình 24.000 đồng/kg.
Từ kết quả đạt được và thông qua việc thực hiện mô hình sản xuất đã giúp cho các hộ dân tham gia dự án đúc kết được kinh nghiệm trồng loại nấm mới. Ngoài ra, dự án cũng đã liên kết với các đơn vị địa phương tổ chức tập huấn cho hơn 200 hộ dân ngoài kế hoạch của dự án về kỹ thuật trồng nấm Bào Ngư.
Ngoài ra, những phụ phế phẩm của bịch phôi nấm cũng đã được người dân tận dụng để làm phân bón, cải mầm, nấm rơm đã làm tăng thêm hiệu quả của mô hình. Hiện nay ngoài những hộ tham gia dự án tiếp tục tái đầu tư, dự án cũng đã tạo sự chú ý của người dân vùng lân cận.
Đây là mô hình tương đối mới ở Cần Thơ nên người dân còn e ngại, do quy mô trồng còn ít nên chủ yếu mới tiêu thụ ở địa phương. Mặc dù người dân đã thấy được hết những ưu điểm cũng như hiệu quả của mô hình, tuy nhiên vốn đầu tư ban đầu còn cao đối với điều kiện của người dân vùng nông thôn, chất lượng phôi giống chưa thực sự ổn định để người dân mạnh dạn đầu tư sản xuất. Vì vậy để giảm giá thành đòi hỏi nhà sản xuất cần tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ trong khâu sản xuất giống để mô hình hấp dẫn đối với người dân.
Khi mô hình được nhân rộng cần có những công nghệ bảo quản sau thu hoạch hay các dạng sản phẩm đa dạng để thị trường tiêu thụ được ổn định.
Từ kết quả trên cho thấy, mô hình trồng nấm Bào Ngư là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế, phù hợp với nhiều đối tượng. Đây là mô hình kinh tế nông nghiệp đô thị phù hợp xu hướng phát triển nông nghiệp của Tp. Cần Thơ./.
(Nguồn: BCKH Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất nấm Bào Ngư…” )









