Hiệu quả sử dụng của một số loại thức ăn công nghiệp đối với tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá giò nuôi thương phẩm tại Cửa Lò
I. Đặt vấn đề
Cá gùi (Racheycentron canadum Linnaeus, 1976) là loài rộng nhiệt phân bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới (Shaffer và ctv 1989). Đây là đối tượng có nhiều ưu điểm để phát triển thành đối tượng nuôi công nghiệp có giá trị thương phẩm cao, như có khả năng chống chịu với điều kiện gió tốt; có tiềm năng cho phát triển nuôi biển trong lồng xa bờ và những vùng biển mở (Nguyễn Quang Huy, 2002; Matthew J. R. và ctv 2006); có sức tăng trưởng nhanh, từ cỡ 30g có thể đạt 6 - 8kg sau một năm nuôi lồng trên biển; thịt trắng, thơm ngon, có hàm lượng axit béo không no EPA và DHA cao hơn so với nhiều đối tượng nuôi khác (Shiau, 1999; Su và ctv 2000).
Tuy nhiên, để phát triển nghề nuôi cá giò ở Việt Nam, bên cạnh con giống và lồng nuôi cần phải đảm bảo nhiều yếu tố, trong đó thức ăn đóng vai trò rất quan trọng. trong nuôi trồng thủy sản, thức ăn chiếm một tỷ lệ lớn trong cơ cấu đầu tư và giá thành sản xuất. Hiện nay, cá tạp là thức ăn chủ yếu để nuôi cá biển nói chung và nuôi cá giò nói riêng ở nước ta, nhưng nguồn cung cấp cá tạp không ổn định về số lượng, chất lượng và giá cả, là một yếu tố hạn chế phát triển nghề nuôi biển. Việc sử dụng thức ăn công nghiệp là điều kiện quan trọng để phát triển nuôi cá giò công nghiệp với sản lượng lớn, hướng tới xuất khẩu ở Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn 2 - 6kg, cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, mức độ sử dụng thức ăn lớn, vì thế việc xác định được loại thức ăn công nghiệp thích hợp trong giai đoạn này sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao sản lượng, hạ giá thành, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Để đánh giá ảnh hưởng của một số loại thức ăn công nghiệp lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá giò nuôi thương phẩm, góp phần xây dựng, xác định loại thức ăn công nghiệp thích hợp nhất cho loài cá này, đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng của một số loại thức ăn công nghiệp lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá giò (Rachycentron canadum) nuôi thương phẩm tại Hòa Ngư - Cửa Lò - Nghệ An” đã được triển khai thực hiện.
II. Kết quả nghiên cứu
Bảng 1: Thành phần dinh dưỡng của các loại thức ăn
Thành phần thức ăn | CT1 | CT2 | CT3 | CT4 |
Protein thô (%) | 45 | 45 | 48 | 45 |
Béo thô (%) | 11 | 18 | 14 | 15 |
Xơ thô (%) | 1,5 | 1,2 | 2 | 2 |
Chất tro (%) | 10 | 15 | 9 | 10 |
Độ ẩm (%) | 8 | 7,6 | 7,9 | 8,2 |
Trước khi bố trí thí nghiệm, cá được xác định khối lượng trung bình bằng cách cân lồng khối lượng cá và cân từng con (20 con) để tính trung bình khối lượng cá ở mỗi lồng. Tăng trưởng của cá được xác định 1 tháng/ lần qua chiều dài và khối lượng của 20 cá thể ở mỗi đợt thu mẫu. Khối lượng từng cá thể và tổng khối lượng cá ở mỗi lồng được xác định khi kết thúc thí nghiệm. Tỷ lệ sống của cá trong từng lồng cũng được xác định khi kết thúc thí nghiệm.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm tốc độ tăng trưởng tuyệt đối (g/con và cm/con), hệ số thức ăn FCR và tỷ lệ sống của cá ở các thí nghiệm.
Thí nghiệm được bố trí trong các ô lồng hình lục giác có thể tích 40 m 3/ lồng. Số lượng cá thí nghiệm 20 con/ lồng, cá thí nghiệm sử dụng 4 công thức thức ăn khác nhau về thành phần thức ăn, mỗi công thức được lặp lại ít nhất 3 lần.
+ Công thức 1: Thức ăn do Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1 sản xuất, được ký hiệu là CT1.
+ Công thức 2: Thức ăn do Công ty Evialis sản xuất, được ký hiệu là CT2.
+ Công thức 3: Thức ăn do Công ty Evialis sản xuất, được ký hiệu là CT3.
+ Công thức 3: Thức ăn do Công ty Evialis sản xuất, được ký hiệu là CT4.
1.. Tăng trưởng của cá giò trong quá trình thí nghiệm
1.1 Tăng trưởng theo khối lượng (W. g)
Bảng 2. Tăng trưởng khối lượng của cá giò ở công thức thí nghiệm
Chỉ tiêu | CT1 | CT2 | CT3 | CT4 |
W cá lúc thả (g/con) | 2482 a±8,0 | 2503 a±23,0 | 2472 a±31,50 | 2485 a±59,27 |
W cá lúc thu (g/con) | 3497 d±30,72 | 4442 c±61,03 | 5005 a±121,05 | 4603 b±59,40 |
W cá tăng thêm (g/con) | 1015,24 | 2060,17 | 2583,71 | 2118,12 |
SGR w(%/ngày) | 1,142 c±0,40 | 1,912 b±0,76 | 2,351 a±0,122 | 2,058 b±0,984 |
(ghi chú: số liệu ở cùng hàng có kí hiệu số mũ khác nhau là khác nhau ở mức sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05)
Kết quả theo dõi tăng trưởng khối lượng trung bình được trình bày ở bảng 2 cho thấy tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm, khối lượng trung bình của cá không có sự khác nhau (p > 0,05) nhưng có sự sai khác giữa các công thức thức thí nghiệm trong quá trình thí nghiệm. Sự tăng trưởng theo khối lượng trung bình của cá giò trong quá trình thí nghiệm đạt cao nhất ở CT3 (5005 g), tiếp đến là CT4 (4603 g), CT2 (4442 g) và thấp nhất ở CT1 (3497 g). Khi phân tích Anova và kiểm định Duncan cho thấy sự sai khác giữa các CT1, CT2, CT3, CT4 có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức p < 0,05.
Sự sai khác này thể hiện rõ hơn ở đồ thị 1 về tăng trưởng trung bình theo khối lượng của cá giò ở các công thức thí nghiệm khác nhau.
Qua đồ thị 1 cho thấy khối lượng trung bình của cá giò khi nuôi sử dụng CT3 luôn cao nhất ở tất cả các lần kiểm tra (3342; 4382 và 5055 g/con), sau đó đến CT4 (3259; 4057 và 4605 g/con); tiếp đến là CT2 (3041; 3705 và 4441 g/con); thấp nhất là CT1 (2651; 2998 và 3497 g/con). Khi kiểm định Duncan thì ở lần kiểm tra thứ hai (ngày thứ 30) đã có sự sai khác rõ rệt giữa các công thức thí nghiệm có ý nghĩa về mặt thống kê ở mức p < 0,05. Sự sai khác càng thể hiện rõ hơn ở lần đo thứ 3 và thứ 4 với tăng trưởng trung bình cao nhất ở CT3 (5055 g/con), tiếp đến là CT4 (4605 g/con), thấp nhất là CT1 (3497 g/con). Ở Việt Nam, Nguyễn Quang Huy và cộng sự (2003) [5] đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn viên ẩm đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá giò giống ương trông lồng biển trên 2 công thức thức ăn viên ẩm (TAVA) 1 và 2 có thành phần lần lượt là 55% cá xay, 43% bột cá, 1,5% vitamin, 0,5% khoáng và 50% cá xay, 45% bột cá, 3% dầu cá, 1,5 vitamin, 0,5% khoáng và một công thức đối chứng là cá tươi. Sau 4 tuần thí nghiệm, kết quả đã chỉ ra rằng cá giò giống giai đoạn sau 65 ngày tuổi (17,6 - 18,4g) sử dụng TAVA cho tốc độ sinh trưởng và hiệu quả kinh tế cao hơn thức ăn cá tạp xay nhỏ, trong đó TAVA 2 có xu hướng cho tốc độ sinh trưởng nhanh hơn, béo hơn và cho hệ số thức ăn thấp hơn.
Tuy nhiên, để đánh giá hiệu quả khi sử dụng các loại thức ăn khác nhau cần sử dụng chỉ số tăng trưởng tương đối theo khối lượng (SGR w) để đưa ra những đánh giá khách quan hơn.
Từ đồ thị 2 cho thấy SGR wcó sự khác nhau giữa các công thức thí nghiệm và ở các giai đoạn khác nhau. Ở giai đoạn cá giò 30 ngày nuôi, CT3 cho tốc độ tăng trưởng SGR wcao nhất (1,0%/ngày), tiếp đến là CT4 (0,9 %/ngày) và CT2 (0,65 %/ngày), cuối cùng là CT1 (0,22 %/ngày). Tương tự ở ngày nuôi 30 - 60, CT3 cũng cho tốc độ tăng trưởng SGR wcao nhất (0,85 %/ngày), sau đó là CT4 (0,73 %/ngày), CT2 (0,66 %/ngày), thấp nhất là CT1 (0,41 %/ngày). Tuy nhiên ở 60 - 90 ngày nuôi thì tốc độ tăng tương đối đồng đều, cao nhất là (0,6 %/ngày), tiếp đến là CT1 (0,52 %/ngày), CT3 (0,50 %/ngày) và CT4 (0,42 %/ngày).
Nhìn chung ở các nghiệm thức, tốc độ tăng trưởng khối lượng tăng ở giai đoạn đầu và giảm dần đến cuối chu kỳ nuôi. Kết quả phân tích Anova và kiểm định Duncan về tốc độ tăng trưởng đặc trưng của cá giò qua 90 ngày nuôi cho sự sai khác rõ rệt giữa các công thức thí nghiệm, cao nhất ở CT3 (2,351 %/ngày(, CT4 và CT2 gần như nhau (2,058 %/ngày và 1,91 %/ngày), thấp nhất CT1 là (1,142 %/ngày) (p < 0,05). Điều này giải thích rằng sự sai khác có thể do thành phần thức ăn, cụ thể là hàm lượng protein khác nhau ở các công thức thí nghiệm. Cụ thể: CT3 có hàm lượng protein cao nhất 48% cho tốc độ tăng trưởng cao nhất; CT4, CT2 và CT1 đều có hàm lượng protein 45% nhưng CT4 và CT2 có tốc tộ tăng trưởng cao hơn CT1 là do có hàm lượng lipid cao hơn ở CT1.
1.2 Tăng trưởng theo chiều dài tiêu chuẩn (SL, cm)
Bảng 3: Tăng trưởng theo chiều dài trung bình
Chỉ tiêu | CT1 | CT2 | CT3 | CT4 |
SL cá lúc thả (cm/con) | 62,66 a± 0,72 | 62,93 a± 0,20 | 63,18 a± 0,40 | 63,23 a± 0,61 |
SL cá lúc thu (cm/con) | 68,42 c± 0,25 | 70,72 b± 0,20 | 73,36 a± 0,41 | 70,40 b± 0,37 |
SL tăng thêm | 5,76 | 7,79 | 10,18 | 7,17 |
SGRSL (%/con) | 0,293 c± 0,04 | 0,389 b± 0,10 | 0,498 a± 0,01 | 0,358 b± 0,26 |
(Ghi chú: số liệu ở cùng một hàng có khác nhau là khác nhau ở mức sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
Kết quả theo dõi tăng trưởng chiều dài trung bình được trình bày tại bảng 3 cho thấy tại thời điểm bắt đầu thí nghiệm, chiều dài trung bình của cá không có sự khác nhau (p > 0,05). Phân tích Anova và kiểm định Duncan qua 90 ngày nuôi với mức sai khác có ý nghĩa thống kê p < 0,05 cho thấy CT3 có tốc độ tăng trưởng chiều dài trung bình lớn nhất (73,36 cm) và có sự chênh lệch rõ rệt với 3 công thức còn lại, CT2 (70,72 cm) và CT4 (70,40 cm) không có sự chênh lệch đáng kể (p > 0,05) nhưng lại chênh lệch với CT1 (68,42 cm). Tại thời điểm kết thúc thí nghiệm, chiều dài của cá ăn thức ăn CT2 và CT4 không có sự sai khác về chiều dài trung bình cũng như tốc độ tăng trưởng tương đối theo ngày (p>0,05). CT3 luôn thể hiện ưu thế ở cả chiều dài trung bình (73,36 cm) và tăng trưởng tương đối chiều dài theo ngày (0,498 %/ngày). CT1 có tốc độ tăng trưởng thấp nhất về chiều dài trung bình (68,42 cm) và tăng trưởng tương đối về chiều dài theo ngày (0,293 %/ngày). Khi phân tích Anova và kiểm định Duncan với mức sai khác có ý nghĩa thống kê p<0,05 cho thấy CT1 luôn có sự chênh lệch với các công thức còn lại ở cả hai chỉ tiêu tăng trưởng trung bình và tăng trưởng tương đối về chiều dài.
2. Mức độ đồng đều (CV%)
Ban đầu độ đồng đều giữa các công thức thí nghiệm là gần như nhau. Tuy nhiên, sang ngày nuôi thứ 30 thì bắt đầu có sự khác biệt, mức độ biến động được thể hiện rõ ràng ở các công thức thí nghiệm. Trong đó CT2 (5,288%) có hệ số biến động lớn nhất, tiếp đến là CT4 (4,426%), CT3 (3,831%) và CT1 thấp nhất (1,482%). Bước sang ngày nuôi thứ 60, hệ số biến động có sự thay đổi, CT2 vẫn có sự biến động cao nhất (3,103 %), tiếp đến là CT1, CT3 và CT4 lần lượt có hệ số biến động là 2,495%, 0,276% và 0,106%. Cá 90 ngày nuôi sử dụng thức ăn ở CT3 có hệ số biến động cao nhất (2,418%), CT2 (1,374%) và CT1 (0,078%) có xu hướng giảm mạnh, CT2 và CT4 có hệ số biến động gần như nhau. Qua phân tích Anova và kiểm định Duncan về hệ số biến động của cá qua 90 ngày nuôi không cho thấy có sự sai khác về mặt thống kê giữa các công thức thí nghiệm (p>0,05). CT2 có hệ số biến động thấp nhất (3,2%), xếp sau là CT3 (2,1%), cuối cùng là CT4 (1,9%) và CT1 (1,6%) cho hệ số biến động thấp nhất. Như vậy, các thức ăn không ảnh hưởng đến mức độ đồng đều giữa các công thức thí nghiệm.
3. Hệ số chuyển đổi thức ăn
Kết quả theo dõi cho thấy sử dụng CT4 cho hệ số chuyển đổi thức ăn thấp nhất (2,41) tiếp đến là CT3 (2,51), sau đó là CT2 (3,09), CT1 có hệ số cao nhất (5,31). Theo kết quả về tăng trưởng thì CT3 cho tốc độ tăng trưởng lớn nhất (2,351 %/ngày) tiếp đến là CT4 (2,058 %/ngày), sau cùng là CT2 và CT1 cho tăng trưởng thấp nhất (1,114 %/ngày).
Như vậy, sử dụng thức ăn CT3 và CT4 cho tốc độ tăng trưởng và hệ số chuyển đổi thức ăn tốt hơn CT2 và CT1, điều này được giải thích thành phần dinh dưỡng của thức ăn CT3 và CT4 cao hơn CT2 và CT1.
4. Tỷ lệ sống của cá giò
Tỷ lệ sống của các công thức là rất cao, theo kết quả phân tích Anova và kiểm định Duncan cho thấy CT1 có tỷ lệ sống cao nhất (98,3%), tiếp theo là CT4 (96,67%), CT2 và CT3 có tỷ lệ sống như nhau (95%), giữa các công thức thí nghiệm không có sai khác về mặt thống kê (p>0,05). Như vậy, tỷ lệ sống không có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá giò giai đoạn thương phẩm.
5. Hiệu quả kinh tế
Bảng 5: Hạch toán kinh tế các công thức thí nghiệm
Chỉ tiêu đánh giá | CT1 | CT2 | CT3 | CT4 |
Giống | 14,896 | 15,018 | 14,833 | 14,9 |
Thức ăn | 7,935 | 8,764 | 9,484 | 7,854 |
Nhân công | 3,6 | 3,6 | 3,6 | 3,6 |
Chi phí khác | 1,0 | 1,0 | 1,0 | 1,0 |
Tổng chi | 27,431 | 28,382 | 28,916 | 27,354 |
Tổng thu | 28,89 | 35,443 | 39,947 | 3,7393 |
Lợi nhuận | 1,459 | 7,061 | 11,03 | 10,039 |
Số liệu bảng 5 cho thấy chi phí sản xuất cho CT4 là thấp nhất (2,354 triệu) chi phi sản xuất cho CT3 là cao nhất (28,917 triệu). Tuy nhiên, sử dụng thức ăn CT3 lại cho lợi nhuận cao nhất (11,030 triệu), tiếp theo là CT4 (10,039 triệu), sau đó là CT2 (7,061 triệu), CT1 thấp nhất (1,459 triệu).
III. Kết luận
- Hiệu quả sử dụng thức ăn ở CT3 (protein 48%) đối với tăng trưởng về chiều dài và khối lượng (73,36 cm; 5005g) (p<0,05) là cao nhất.
- Cá giò sử dụng thức ăn CT4 (protein 45%) cho FCR thấp nhất (2,41).
- Cá giò sử dụng thức ăn CT1 (protein 45%) cho tỷ lệ sống cao nhất ở các lô thí nghiệm (98,3%) (p<0,05).
- Sử dụng thức ăn ở CT3 (protein 48%) cho hiệu quả kinh tế cao nhất (11,03 triệu đồng).
Tài liệu tham khảo
1. Đỗ Văn Minh, Đồng Văn Vĩnh, Lê Xân, Mai Công Khuê, Peter Lausen, Nguyễn Quang Huy, Hoàng Nhật Sơn, Cao Văn Hạnh và ctv, 2003, Nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá giò (Rachycentron canadum) tại Hải Phòng - Quảng Ninh. Hợp phần SUMA, Chương trình FSPS, Dự án DANIDA.
2. Nguyễn Quang Huy, Bùi Văn Hùng, Phạm Đức Phương và Trần Mai Thiên, 2003 , Ảnh hưởng của thức ăn viên ẩm đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá giò giống (Rachycentron canadum) ương lồng trên biển,Tuyển tập hội nghị khoa học toàn quốc về nuôi trồng thủy sản thứ 2, Viện Nghiên cứu và nuôi trồng thủy sản 1, tr 285 0 289.
3. Nguyễn Quang Huy, 2002, Hiện trạng sản xuất giống và nuôi cá giò(Rachycentron canadum) Ở Việt Nam,Tạp chí Thủy sản, số 7 - 2002, tr 14 - 16.
4. Nguyễn Quang Huy, Như Văn Cẩn, Đỗ Văn Minh, Peter Lausen, Phạm Lam Hồng, Nguyễn Thị Lệ Thủy, Bùi Văn Hùng và Trần Mai Theien, 2003, Phát triển kỹ thuật sản xuất giống cá giò (Rachycentron canadum),Tuyển tập Hội nghị khoa học toàn quốc về nuôi trồng thủy sản lần thứ 2, Viện Nghiên cứu và nuôi trồng thủy sản 1, tr 269 - 274.
5. Matthew J. Resley, Henneth A. Webb Jr., G Joan Holt, 2006, Growth and survival oF juvenile cobia, Rachycentron canadum, at different salinities in a recirculating aquaculture system,Aquaculture 253, 398 - 407.
6. Shaffer, R. V. and E. L. Nakamura, 1989, Shaffer, R. V. and E. L. Nakamura, 1989, Synopsis of Biological Data on the Cobia, Rachycentron canadum, (Pisces: Rachycentridae),FAP Fisheries Synop 153 (NMFS/S 153). U.S. Dep. Commer., NOAA Tech. Rep. NMFS 82. 21p.
7. Shiau, C. Y., 199, Chemical and nutrient components of cultured cobia (Rachycentron canadaum) Project Report of Taiwan Fisheries Bureau 1999. Taiwan Fisheries Bureau, Taipei, Taiwan, 24 pp., in Chinese.
8. Su, M.S., Y.H Chen and I.C Liao, 2000. Potential of marine cage aquaculture in Taiwan:cobia culture. In cage Aquaculture in Asia: Proceedings of First International Symposium on Cage Aquaculture in Asia (ed I.C. Liao and C.K. Lin), pp, 97 - 106.
9. Shiau, C.Y, 1999, Chimecal and nutrient components of cultured cobia (Rachycentron canadum) Project Report of Taiwan Fisheries Bureau 1999,Taiwan Fisheries Bureau, Taipei, Taiwan, 24pp, in Chinese.








